Bản án 256/2018/HNGĐ-ST ngày 28/11/2018 về xin ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 256/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 28 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 934/2018/TLST-HNGĐ, ngày 25 tháng 10 năm 2018 về việc xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 866/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lê Văn G, sinh năm: 1984 (có mặt). Địa chỉ cư trú: Ấp Ch, xã Lý Văn L, thành phố C, tỉnh CM.

- Bị đơn: Chị Vỏ Trúc Ph, sinh năm: 1983 (xin vắng mặt). Địa chỉ cư trú: Ấp Ch, xã Lý Văn L, thành phố C, tỉnh CM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và tại phiên tòa, anh Lê Văn G trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Vỏ Trúc Ph xác lập quan hệ hôn nhân và chung sống vợ chồng vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Lý Văn L, thành phố C. Hôn nhân được xác lập trên tinh thần tự nguyện, có tổ chức hỏi cưới theo phong tục, tập quán và được gia đình hai bên chấp thuận.

Quá trình chung sống, anh G cho rằng cuộc sống vợ chồng tương đối hòa thuận, hạnh phúc nhưng khoảng năm 2015 trở đi, vợ, chồng đã phát sinh mâu thuẫn về quan điểm và cách sống. Nguyên nhân do chị Ph chán nản chồng và gia đình bên chồng nên thường có những lời nói khó nghe đối với gia đình chồng. Từ đó, tình cảm vợ, chồng trở nên phai nhạt, xa cách và hiện không còn yêu thương, quan tâm, chia sẻ, bảo vệ cho nhau. Anh, chị không còn chung sống vợ chồng khoảng tháng 11/2017 đến nay. Do đó, anh xét thấy tình cảm vợ, chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Ph.

- Về con chung: Anh G xác định giữa anh và chị Ph có 01 con chung là Lê Văn Gi, sinh ngày 05/12/2012, hiện tại cháu Gi đang chung sống với chị Ph. Khi ly hôn, anh yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu chị Ph cấp dưỡng nuôi con. Trường hợp Tòa án giao con cho chị Ph nuôi thì anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ.

- Về tài sản chung: Anh G xác định vợ, chồng anh có một số tài sản chung là vật dụng sinh hoạt thường ngày của gia đình nhưng không đáng kể nên anh không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Anh G khai giữa vợ, chồng anh không thiếu nợ người khác và người khác không nợ lại vợ, chồng anh.

* Tại bản tự khai ngày 22/11/2018, chị Vỏ Trúc Ph trình bày: Về thời gian kết hôn, nơi đăng ký kết hôn, thời gian chung sống, con chung, tình trạng tài sản chung, nợ chung đúng như anh G trình bày. Về mâu thuẫn gia đình, chị Ph xác định: Khoảng năm 2013, giữa vợ, chồng chị đã xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh G thường xuyên đi sớm, về muộn, có khi không về nhà, không quan tâm, chia sẻ cuộc sống gia đình với chị. Nay anh G yêu cầu ly hôn với chị thì chị đồng ý ly hôn; chị yêu cầu được nuôi con và yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ; tài sản chung tự vợ, chồng chị thỏa thuận; nợ chung không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Vỏ Trúc Ph có đơn yêu cầu không tham gia tố tụng và đồng ý để Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Ph theo quy định. Về loại việc tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án: Tranh chấp giữa anh G và chị Ph là tranh chấp về ly hôn nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Anh Lê Văn G và chị Vỏ Trúc Ph xác lập quan hệ vợ, chồng, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán, có đăng ký kết hôn vào năm 2010 và đủ điều kiện kết hôn theo luật định nên hôn nhân được chấp nhận là hợp pháp và được pháp luật công nhận, bảo vệ. Quá trình chung sống, vợ, chồng anh, chị có nhiều điểm bất đồng trong mối quan hệ tình cảm, không quan tâm, chăm sóc, cảm thông, chia sẻ lẫn nhau. Xét mâu thuẫn thực tế là có nhiều mâu thuẫn, nhận thấy về mục đích hôn nhân không đạt. Bởi lẽ, trong cuộc sống vợ chồng, anh, chị mỗi người đều có cách sống, công việc khác nhau; anh G thường xuyên đi làm máy cày, máy cắt vắng nhà, chị Ph đi làm công ty thủy, hải sản nên anh, chị ít có điều kiện gần gủi, an ủi và cảm thông cho nhau nên không hiểu về nhau, từ đó, vợ, chồng đã nhiều lần cải vã, làm mất lòng tin đối với nhau, mỗi người có cuộc sống và mối quan hệ riêng tư, không quan tâm, giúp đở lẫn nhau. Mặt khác, sau khi xảy ra mâu thuẫn, anh, chị cũng tự dung hoà để hàn gắn tình cảm vợ, chồng; cha, mẹ hai bên cũng hòa giải hàn gắn nhưng không có hiệu quả. Thực tế anh, chị cũng không còn chung sống vợ chồng khoảng 01 năm nay. Thời gian này nhằm tạo điều kiện cho anh, chị thử thách bản thân, suy ngẫm về cuộc sống vợ, chồng đã qua để tìm cách tháo gỡ, khắc phục khuyết điểm của mỗi bên để vợ, chồng đoàn tụ nhưng không ai có biện pháp gì để khắc phục tình trạng mâu thuẫn và cũng không quan tâm, thăm hỏi, giúp đỡ lẫn nhau. Bên cạnh đó, chị Ph cũng chấp nhận ly hôn với anh G. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận cho anh G được ly hôn với chị Ph là có căn cứ.

[3] Về con chung: Anh G và chị Ph xác định giữa anh, chị có 01 người con chung là Lê Văn Gi, sinh ngày 05/12/2012, hiện tại cháu Gi đang được chị Ph chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn, cả anh G và chị Ph đều yêu cầu được nuôi con; anh G không yêu cầu chị Ph cấp dưỡng nuôi con; chị Ph yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ. Anh G xác định, trường hợp Tòa án giao con cho chị Ph nuôi thì anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình thì vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con. Đối với cháu Gi hiện còn quá nhỏ, cần người mẹ chăm sóc, thương yêu, đỡ đầng; hơn nữa, tình cảm của trẻ thơ thường khắn khít với người mẹ nhiều hơn. Tuy anh G chứng minh điều kiện kinh tế của anh đảm bảo để nuôi cháu Gi, nhưng thực tế thời gian chung sống với chị Ph 07 năm qua, cả vợ, chồng anh đều đi làm, có thu nhập nhưng vẫn không tạo lập được khối tài sản chung nào đáng kể. Mặt khác, việc nuôi con không chỉ căn cứ về kinh tế mà phải bảo đảm về mọi mặt vật chất và tinh thần; việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhân cách, sự phát triển bình thường về tâm, sinh lý của người con. Bên cạnh đó, anh G xác định chị Ph bị áp lực tâm lý, có dấu hiệu bệnh trầm cảm và hiện cháu Gi do chị Ph trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, nếu giao cháu Gi cho anh G nuôi sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý chị Ph, có thể làm cho tình trạng bệnh của chị thêm xấu đi và cũng làm xáo trộn tâm lý cháu Gi. Do đó, Hội đồng xét xử cần giao cháu Gi cho chị Ph tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp. Về khoản tiền cấp dưỡng nuôi con, thì cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình. Chị Ph yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ và anh G đồng ý nên Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con của anh G là phù hợp.

[4] Về tài sản chung: Anh G và chị Ph xác định giữa vợ, chồng anh, chị có một số tài sản sinh hoạt gia đình nhưng anh, chị không đặt ra yêu cầu phân chia nên không xem xét.

[5] Về nợ chung: Anh G và chị Ph khai rằng anh, chị không thiếu nợ người khác và người khác không nợ lại anh, chị nên không đề cập giải quyết.

[6] Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, buộc anh G phải chịu theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của anh Lê Văn G về việc ly hôn chị Vỏ Trúc Ph.

2. Về con chung: Tiếp tục giao cháu Lê Văn Gi, sinh ngày 05/12/2012 cho chị Vỏ Trúc Ph trực tiếp nuôi dưỡng; chấp nhận sự tự nguyện cấp dưỡng nuôi con của anh G mỗi tháng 1.000.000đ. Thời hạn cấp dưỡng từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu Giỏi đủ 18 tuổi. Anh Lê Văn G được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Kể từ ngày chị Ph có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh G không tự nguyện thi hành khoản tiền cấp dưỡng nuôi con thì hàng tháng phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chậm thanh toán.

3. Về tài sản chung: Anh G và chị Ph không đặt ra yêu cầu phân chia nên không xem xét.

4. Về nợ chung: Anh G và chị Ph khai không thiếu nợ người khác và người khác không nợ lại anh, chị nên không đề cập giải quyết.

5. Án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và gia đình, anh G phải chịu 300.000đ. Ngày 24 tháng 10 năm 2018, anh G đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai số 1553 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được đối trừ chuyển thu sung quỹ nhà nước. Án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, buộc anh G phải chịu 300.000đ khi bản án có hiệu lực pháp luật (chưa nộp).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Anh G được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Ph được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 256/2018/HNGĐ-ST ngày 28/11/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:256/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về