Bản án 255/2019/HNGĐ-ST ngày 22/05/2019 về ly hôn giữa ông H và bà M

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 255/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/05/2019 VỀ LY HÔN GIỮA ÔNG H VÀ BÀ M

Ngày 22 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 11 xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 542/2018/TLST-HNGĐ ngày 10/10/2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/4/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10/5/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Hứa Vĩnh H, sinh năm 1975; địa chỉ: đường V, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh;

Ông H có đơn xin vắng mặt.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thanh M, sinh năm 1975; địa chỉ: đường H, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Bà M vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/9/2018 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Hứa Vĩnh H trình bày:

Ông H và bà Nguyễn Thanh M tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường M, Quận N theo Giấy chứng nhận kết hôn số 33, quyển số 01/2004, đăng ký ngày 13/5/2004.

Vợ chồng chung sống có 01 con chung tên là Hứa Minh H, sinh ngày 09/8/2005.

Trong quá trình chung sống với nhau, ông H và bà M xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân chủ yếu là do hai bên không hợp tính tình, bất đồng quan điểm nhiều mặt trong cuộc sống nên vợ chồng hay xảy ra cãi vã. Từ khi sinh con, bà M lấy lý do con còn nhỏ, nhà chồng chật chội nên ở nhà cha mẹ ruột mà không về sống cùng với ông H. Vì con ông H đã nhiều lần cố gắng khuyên nhủ, hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng nhưng không có kết quả. Ông H và bà M đã sống ly thân từ năm 2010 cho đến nay. Ông H nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc. Vì vậy, ông H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông ly hôn với bà M để rõ ràng về mặt pháp lý.

Về con chung: Ông H yêu cầu được nuôi dưỡng trẻ Hứa Minh H, sinh ngày 09/8/2005. Ông H không yêu cầu bà M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông H xác định trong quá trình chung sống với bà M cả hai không có tài sản chung, không có nợ chung. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Tại phiên tòa, ông Hứa Vĩnh H có đơn xin vắng mặt. Ông H vẫn giữ nguyên yêu cầu như trong Đơn khởi kiện đã nêu và ý kiến ông đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ kiện tại Tòa án.

Về phía bị đơn: Bà Nguyễn Thanh M có đăng ký thường trú tại địa chỉ đường T, Phường X, Quận Y và hiện thực tế đang cư ngụ tại địa chỉ số đường H, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. Toà án nhân dân Quận 11 đã thực hiện thủ tục tống đạt trực tiếp, niêm yết các văn bản tố tụng cho bà M nhưng bà M không đến Toà án giải quyết. Do đó, Toà án không thể tiến hành lấy lời khai, hoà giải đối với bị đơn được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 phát biểu quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án,Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo pháp luật tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nhận thấy cuộc sống hôn nhân giữa ông H và bà M thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, quan điểm sống không phù hợp, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại các buổi H giải bà M đều không đến, chứng tỏ bà M cũng không có thiện chí muốn chung sống với ông H. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà M và ông H là trầm trọng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 yêu cầu xin ly hôn của ông H có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Hứa Vĩnh H; giao trẻ Hứa Minh H, sinh ngày 09/8/2005 cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận việc ông H không yêu cầu bà M cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nguyên đơn chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Hứa Vĩnh H có đơn yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thanh M, theo đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn và tại Kết quả xác minh của Công an Phường X, Quận Y thì bà Nguyễn Thanh M có đăng ký thường trú và hiện đang cư trú tại Quận 11. Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông Hứa Vĩnh H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bà Nguyễn Thanh M vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Toà án đã tống đạt hợp lệ nhiều lần các văn bản tố tụng cho bà M nhưng bà M đều vắng mặt, không đến Tòa giải quyết. Bà M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 nhưng đều vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt cả nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông Hứa Vĩnh H và bà Nguyễn Thanh M tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2004, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 33, quyển số 01/2004, đăng ký ngày 13/5/2004. Quan hệ hôn nhân giữa ông H và bà M là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Ông H và bà M chung sống có 01 con chung tên Hứa Minh H, sinh ngày 09/8/2005.

Mâu thuẫn giữa ông H và bà M phát sinh nguyên nhân chính là do cả hai bất đồng quan điểm nhiều mặt trong cuộc sống mà không thể giải quyết được. Ông H cũng đã cố gắng khuyên nhủ, hàn gắn để bà M thay đổi tính tình, quan điểm sống nhưng không có kết quả. Cả hai sống ly thân từ năm 2010 cho đến nay, tình cảm vợ chồng không còn gắn bó, không có sự quan tâm, chia sẻ lẫn nhau. Ông H nhận thấy tình cảm giữa vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau, mâu thuẫn kéo dài không thể hàn gắn nên ông xin ly hôn với bà M để rõ ràng về pháp lý.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và H giải, Thông báo H giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho bà M. Bà M biết nội dung khởi kiện và yêu cầu của ông H nhưng trong suốt quá trình Tòa án thụ lý đến phiên tòa hôm nay bà M đều không đến Tòa để giải quyết. Điều đó cho thấy bà M không có thiện chí muốn H giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Qua sự việc đã nêu thể hiện tình trạng hôn nhân giữa ông H và bà M đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của ông Hứa Vĩnh H.

[4] Về người trực tiếp nuôi dưỡng con chung: Ông H và bà M chung sống có 01 con chung tên là Hứa Minh H, sinh ngày 09/8/2005. Theo nguyện vọng của trẻ H thể hiện trong bản tự khai lập tại Tòa án, nếu cha mẹ ly hôn thì nguyện vọng của em là muốn ở cùng với cha và thực tế hiện nay trẻ H đang ở cùng với ông H, do ông H trực tiếp nuôi dưỡng. Theo Kết quả cung cấp tài liệu, chứng cứ ở địa phương thì ông H có điều kiện nuôi dưỡng con. Căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của trẻ, đồng thời trên cơ sở xem xét nguyện vọng của trẻ H. Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết giao trẻ H cho ông H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Do đó, chấp nhận yêu cầu của ông H về việc trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Ghi nhận sự tự nguyện của ông H không yêu cầu bà M cấp dưỡng nuôi con.

Bà Nguyễn Thanh M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Ông H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ghi nhận lời khai của ông H xác định ông và bà M không có tài sản chung và nợ chung. Nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Hứa Vĩnh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu của ông Hứa Vĩnh H. Cho ly hôn giữa ông Hứa Vĩnh H và bà Nguyễn Thanh M.

Giấy chứng nhận kết hôn số 33, quyển số 01/2004 do Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 13/5/2004 không còn giá trị pháp lý.

2. Về nuôi con chung:

Giao trẻ tên Hứa Minh H, sinh ngày 09/8/2005 cho ông Hứa Vĩnh H trực tiếp nuôi dưỡng.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông H không yêu cầu bà M cấp dưỡng nuôi con.

Bà M được quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở bà M thực hiện quyền này.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Hứa Vĩnh H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông H đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0009243 ngày 05/10/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa đươc quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Các quyền và nghĩa vụ thi hành án dân sự của các đương sự được thực hiện tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014)./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 255/2019/HNGĐ-ST ngày 22/05/2019 về ly hôn giữa ông H và bà M

Số hiệu:255/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về