Bản án 253/2019/HNGĐ-ST ngày 09/10/2019 về ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 253/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/10/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 09 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 671/2019/TLST-HNGĐ, ngày 28/6/2019 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 281/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 28/8/2019 và Quyết Định hoãn phiên tòa số 166/2019/QĐ.DS ngày 17/9/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Bảo Q, sinh năm 1989, (có mặt).

2. Bị đơn: Bà Trần Thị N, sinh năm 1989, (vắng mặt)

Địa chỉ: Cùng ấp G, xã M, huyện Đ, tỉnh LA.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 20/6/2019 và tại phiên Tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Bảo Q trình bày tóm tắt như sau:

Ông và bà Trần Thị N có tìm hiểu nhau sau đó tiến tới hôn nhân, được hai bên tổ chức lễ cưới hỏi năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Đ, tỉnh LA ngày 28/3/2009. Thời gian đầu vợ chồng sống chung hạnh phúc cho đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã, tình nghĩa vợ chồng rạng nứt, khó hàn gắn, từ đó ông và bà N ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và cũng không thể hàn gắn nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn với bà Trần Thị N.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Vợ chồng chung sống có 01 con chung tên Nguyễn Trần Bảo A, sinh ngày 07/11/2008. Khi ly hôn ông yêu cầu tiếp tục nuôi cháu Bảo A không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Ông Q xác định, tài sản chung ông và bà N không có tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, bị đơn bà Trần Thị N được Tòa án tống đạt hợp lệ các thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà N không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Bảo Q. Bà N cũng không đến Tòa để tham gia phiên họp kiểm tra chứng cứ và hòa giải. Đối với ông Nguyễn Bảo Q, có đơn đề nghị Tòa án không hòa giải vụ án. Do đó, vụ án được đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở trình bày của đương sự, qua thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Bị đơn bà Trần Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt. Căn cứ tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về hôn nhân: Ông Nguyễn Bảo Q và bà Trần Thị N cưới nhau vào năm 2009, có đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân xã M, huyện Đ cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 28/3/2009 (số 37/2009) nên quan hệ hôn nhân của ông Q và bà N được pháp luật thừa nhận là hợp pháp từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Ông Q cho rằng cuộc sống vợ chồng không được hạnh phúc là do bà N không quan tâm chăm sóc gia đình, dẫn đến bất đồng quan điểm nên ly thân. Bà N được tống đạt hợp lệ các văn bản của Tòa án thể hiện việc ông Q yêu cầu xin ly hôn với bà tại Tòa án nhưng bà N không có ý kiến, không thể hiện ý chí đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại phiên Tòa ông Q xác định không còn tình cảm với bà N và cương quyết ly hôn. Điều đó, chứng tỏ quan hệ hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận theo đơn yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Bảo Q đối với bà Trần Thị N.

[3] Về quyền nuôi con chung: Khi ly hôn ông Q yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Trần Bảo A, sinh ngày 07/11/2008 không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi con.

Về việc nuôi con bà N không có ý kiến phản hồi về quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con, xét thấy ông Q hiện đang nuôi cháu Bảo A khỏe mạnh và phát triển bình thường cháu Bảo A có nguyện vọng sống cùng ông Q nên Hội đồng xét xử giao cháu Nguyễn Trần Bảo A cho ông Nguyễn Bảo Q tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc.

[4] Về tài sản chung: Ông Nguyễn Bảo Q xác định ông và bà N không có tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà N không có ý kiến gì về tài sản chung và nợ chung giữa các bên. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết vấn đề tài sản chung và nợ chung của ông Nguyễn Bảo Q và bà Trần Thị N.

Trường hợp sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung, nợ chung cũng như quyền nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.

[5] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Bảo Q phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28 Điều 35, Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 85 và Điều 86 Luật hôn nhân gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Q hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Bảo Q đối với bà Trần Thị N.

Về hôn nhân: Ông Nguyễn Bảo Q được ly hôn với bà Trần Thị N.

Về quyền nuôi con chung: Ông Nguyễn Bảo Q được quyền trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Trần Bảo A, sinh ngày 07/11/2008. Bà Trần Thị N không cấp dưỡng nuôi con.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung, khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Bảo Q phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, sung ngân sách Nhà nước, được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004991 ngày 26/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết công khai bản án.

“Trường hợp bản án hoặc quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án là 05 năm theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 253/2019/HNGĐ-ST ngày 09/10/2019 về ly hôn 

Số hiệu:253/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về