Bản án 25/2021/HS-ST ngày 25/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 25/2021/HS-ST NGÀY 25/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 198/2020/TLST-HS ngày 25/12/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2021/QĐXXST-HS ngày 03/02/2021 đối với bị cáo:

Hà Minh Đ - sinh ngày 24/7/1991, tại tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Khu 3, thị trấn H, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn C (chết) và bà Hà Thị Th; có vợ là Trần Thị Thanh T và 02 con; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ: ngày 27/5/2020; tạm giam: ngày 05/6/2020; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Mai Văn B - Luật sư Văn phòng Luật sư Bắc Thành thuộc đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Hà Minh Đ bị Viện kiểm sát nhân tỉnh Thanh Húa truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 12h00 ngày 17/5/2020, Hà Minh Đ đến nhà Sùng A C, sinh năm 1987 ở Bản T, xã T.L, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa để tìm mua hoa lan thì Sùng A C có nhờ Hà Minh Đ tìm mua giúp một chiếc điện thoại IPHONE X với giá từ 14.000.000đ - 15.000.000đ để sử dụng. Sau đó, khi đi chơi ở thị trấn H, huyện Quan Hóa Đ mua của một người nam giới không quen biết chiếc điện thoại IPHONE X với giá 14.500.000đ (Mười bốn triệu năm nghìn đồng). Đến khoảng 01h00 ngày 24/5/2020 Đ đi xe máy lên nhà Sùng A C để đưa chiếc điện thoại cho C.

Khi nhận được điện thoại C đưa trước cho Đ 4.500.000đ (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng) và hẹn sẽ trả sau cho Đ số tiền còn lại. Đến khoảng 04h00 cùng ngày Đ ra về, khi ra đến cổng Đ gặp một người nam giới dân tộc Mông, người này giới thiệu tên là Đ, ở Bản T, xã T.L, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa hỏi Đ có mua hồng phiến không? Do bản thân là người sử dụng ma túy (hồng phiến), nên Đ trả lời có và hỏi giá bao nhiêu tiền một gói hồng phiến, Đ bảo 4.500.000đ (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng) một gói (khoảng 200 viên/gói) Đ đồng ý và đặt mua 10 (mười) gói Hồng phiến với giá tổng cộng là 45.000.000đ (Bốn mươi lăm triệu đồng), Đ đưa trước cho Đ 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng) tiền đặt cọc để mua hồng phiến. Đ và Đ thống nhất, hẹn đúng 23h30 ngày 26/5/2020 Đ sẽ đi xe máy đến gần nhà Sùng A C và để xe ngoài đường trước cổng nhà C, Đ sẽ chủ động để ma túy (hồng phiến) vào cốp đựng đồ phía trước xe máy của Đ, khi nào nghe tiếng chó sủa nhiều là tín hiệu Đ đã bỏ ma túy vào cốp xe xong, thì Đ sẽ ra lấy xe máy đi về, sau khi kiểm tra đủ số lượng, chất lượng ma túy (hồng phiến) thì Đ sẽ mang số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) mua hồng phiến còn thiếu lên trả cho Đ, vẫn tại vị trí ngoài đường trước cổng nhà Sùng A C.

Khoảng 20h00 ngày 26/5/2020, Hà Minh Đ một mình đi xe máy SH, BKS: 36B5-46079 lên nhà Sùng A C hỏi C số tiền còn nợ mua điện thoại trước đó, đồng thời để nhận số ma túy (hồng phiến) đã đặt mua của Đ trước đó. Đến khoảng 23h30 ngày 26/5/2020, Đ đi lên đến nhà C và để xe máy ở ngoài đường trước cổng nhà C, cắm chìa khóa xe trong ổ khóa xe máy, rồi đi vào trong nhà gặp C (lúc này C đang ở nhà một mình). Đ hỏi số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) mà C nợ, thì C nói chưa có tiền và hẹn hôm sau sẽ trả. Đ ngồi trong nhà C đến khoảng 00h00 ngày 27/5/2020, thì nghe thấy tiếng chó bên ngoài sủa nhiều, biết là Đ đã bỏ ma túy (Hồng phiến) vào trong cốp xe của mình, nên Đ đi ra ngoài đường trước cổng nhà C lấy xe máy về nhà. Khi đi được khoảng 03 km thuộc địa phận Bản T, xã T.L, huyện Mường Lát thì bị tổ công tác Công an huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa kiểm tra phát hiện bắt quả tang.

Tang vật thu giữ gồm:

- 08 (tám) gói nilon màu xanh và 02 (hai) gói nilon màu màu hồng, mặt ngoài có chữ “A”. Bên trong các gói nilon chứa 1968 viên nén hình trụ tròn, trên bề mặt các viên nén có dập chữ “WY”. Trong đó có 20 viên màu xanh, hình trụ tròn và 1948 viên nén màu hồng hình trụ tròn.

- 01 (một) khẩu súng dạng côn xoay, màu đen dạng côn xoay, bên trong có 01 (một) viên đạn, trên thân súng bên phải có ký hiệu “NO: 152434”, “PRODUCED BY KOREAN”, “MADE IN VIET NAM”, trên thân súng bên trái có ký hiệu “GAS SPRAY REVOLVER”, “SĐN-E112”, “HIGHT BEST GRADE”.

- 01 (một) xe máy nhãn hiệu SH màu xanh, có BKS: 36B5-46079, số máy KF25E-0002397, số khung: RLHKF2503GY002350.

- 01 (một) dao dài khoảng 24cm, cán được bọc bằng băng dính màu đen, lưỡi dao bằng kim loại có mũi nhọn.

- 01 (một) điện thoại di động SAMSUNG màu trắng, đã qua sử dụng, có số IMEI 1: 358815/10/215980/2; IMEI 2: 358816/10/215980/0.

Kết luận giám định số: 1486/PC09 ngày 01/6/2020 của Phòng KTHS - Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: 08 (tám) gói nilon màu xanh và 02 (hai) gói nilon màu màu hồng, bên trong các gói nilon đều chứa các viên nén hình trụ tròn màu hồng và màu xanh (Có tổng số 1948 viên màu hồng và 20 viên màu xanh), trên bề mặt các viên nén có dập chữ “WY”, có tổng khối khối lượng 197,664 gam là ma túy, loại Methamphetamine.

Kết luận giám định số: 1511/PC09 ngày 04/6/2020 của Phòng KTHS - Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: 01(một) khẩu súng ngắn màu đen dạng côn xoay, bên trong buồng đạn có 01(một) viên đạn, trên thân súng bên phải có ký hiệu “NO:

152434”, “PRODUCED BY KOREAN”, “MADE IN VIET NAM”, trên thân súng bên trái có ký hiệu “GAS SPRAY REVOLVER”, “SĐN-E112”, “HIGHT BEST GRADE”. Là loại súng bắn đạn hơi cay, đầu đạn cao su, thuộc danh mục công cụ hỗ trợ, không phải là vũ khí quân dụng và không có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và 01(một) viên đạn có trong buồng đạn của súng là loại đạn đầu cao su.

Hà Minh Đ khai nhận mua của một người đàn ông dân tộc Mông, tự giới thiệu tên là Đ ở Bản T, xã T. L, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Cơ quan điều tra xác minh tại Bản T, xã T. L, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa nhưng không có người nào tên là Đ. Nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xác minh làm rõ.

Đối với Sùng A C có mối quan hệ quen biết từ trước, do Đ thường lên nhà C để mua hoa phong lan. Việc Hà Minh Đ mua ma túy của đối tượng giới thiệu tên là Đ để mang về sử dụng thì Sùng A C không biết. Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý trách nhiệm đối với Sùng A C trong vụ án này.

Chiếc xe máy nhãn hiệu SH, màu xanh có BKS: 36B5-46079, số máy KF25E-0002397, số khung: RLHKF2503GY002350, quá trình điều tra xác định: Chủ sở hữu của chiếc xe máy trên là anh Hà Minh D, sinh năm: 1981, ở khu 3 thị trấn H, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. D không biết Đ mượn xe máy của mình để sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy về sử dụng, Đ cũng không nói mục đích của mình, nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện Mường Lát đã trả lại chiếc xe máy trên cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Hà Minh D.

Đối với 01 khẩu súng (bên trong có 01 viên đạn) Hà Minh Đ khai nhận vào khoảng giữa tháng 5/2020 Đ nhặt được bên đường, qua Đồn Biên phòng Hiền Kiệt khoảng 40m khi Đ lên huyện Mường Lát mua gỗ và hoa phong lan.Qua giám định là loại súng bắn đạn hơi cay, đầu đạn cao su, thuộc danh mục công cụ hỗ trợ, không phải là vũ khí quân dụng và không có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và 01(một) viên đạn là loại đạn đầu cao su . Nên Cơ quan Công an tỉnh Thanh Hóa đã xử phạt vi phạm hành chính theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 3372/QĐ-XPHC ngày 23/11/2020 đối với Hà Minh Đ về hành vi “Tàng trữ công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép”. Ngày 04/12/2020, khẩu súng và viên đạn nêu trên đã được chuyển đến Phòng Hậu cần (PH10) Công an tỉnh Thanh Hóa để bảo quản và xử lý theo quy định của pháp luật.

- Tại bản cáo trạng số 08/CT-VKS-P1 ngày 24/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Húa đã truy tố Hà Minh Đ về tội "Tàng trữ trỏi phộp chất ma tỳy" theo điểm b khoản 4 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử ỏp dụng: Điểm b Khoản 4, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 47; Điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo từ 16 đến 17 năm tù; phạt bổ sung từ 5.000.000đ đến 10.000.000đ đối với bị cáo để sung công quỹ Nhà nước. Tịch thu tiêu hủy số ma túy sau giám định, tịch thu để tiêu hủy 01 dao nhọn; Tịch thu để sung công quỹ 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG. Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì với đại diện VKS. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa của bị cáo đồng ý với tội danh và điều luật mà VKS truy tố. Đề nghị HĐXX căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo vì bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo là người dân tộc thiểu số, hiểu biết pháp luật hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông ngoại bị cáo có Huân chương kháng chiến, huy hiệu 55 năm tuổi Đảng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu được cùng các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án; thấy đủ cơ sở chứng minh: Hồi 00 giờ 10 phút, ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại Bản T, xã T.L, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, Hà Minh Đ đang có hành vi tàng trữ trái phép 197,664 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác, Công an huyện Mường Lát phát hiện bắt quả tang thu giữ số tang vật trên.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi phạm tội của Hà Minh Đ có đủ các dấu hiệu cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Bị cáo tàng trữ trái phép với trọng lượng 197,664 gam ma túy, nên phải chịu tình tiết định khung hình phạt theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa truy tố bị cáo tại bản cáo trạng là đúng pháp luật.

[3]. Tính chất vụ án: Tội phạm về ma túy là rất nguy hiểm. Vì ma túy gây tác hại đến sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, phá vỡ hạnh phúc gia đình. Ngoài ra, ma túy còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác và gây lan truyền căn bệnh HIV/AIDS. Mặc dù bị cáo biết rõ tác hại của ma túy nhưng do xem thường pháp luật, thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội, bị cáo đã tàng trữ trỏi phộp ma túy nhằm sử dụng trỏi phộp. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý đặc biệt các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an chung, cần phải xử lý nghiêm minh.

[4]. Trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Với tính chất của vụ án thì việc cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian dài là cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt cần giảm nhẹ một phần TNHS đối với bị cỏo vì tại các cơ quan pháp luật bị cáo thành khẩn khai báo; ụng ngoại bị cỏo cú Huõn chương khỏng chiến, huy hiệu 55 năm tuổi Đảng; căn cứ điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

[5]. Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy thu của bị cáo được niêm phong bằng phong bì thư là vật nhà nước cấm lưu hành, sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động SamSung màu trắng do bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu để sung công quỹ Nhà nước. Tịch thu của bị cáo 01 con dao nhọn cũ, cán dao được bọc bằng băng dính màu đen đã qua sử dụng không còn giá trị sử dụng để tiêu hủy. Căn cứ khoản 1; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS.

[6]. Hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép ma túy với khối lượng lớn nên cần phạt tiền 5.000.000đ đối với bị cáo để sung công quỹ Nhà nước.

[7]. Án phớ: Bị cáo phải chịu án phí HSST; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định án phí, lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm b Khoản 4, khoản 5 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS.

Tuyên bố: Bị cáo Hà Minh Đ phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Bị cáo Hà Minh Đ 16 (mưới sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 27/5/2020.

Phạt tiền 5.000.000đ đối với bị cáo Hà Minh Đ để sung công quỹ Nhà nước.

Áp dụng: Khoản 1, Điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 136 của BLTTHS. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định án phí, lệ phí tòa án.

Vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy toàn bộ số ma túy được niêm phong bằng 01 phong bì niêm phong được dán kín, mặt trước ghi: “Vụ: Hà Minh Đ”, mặt sau có các chữ ký chữ viết ghi rõ họ tên của Nguyễn Trần Đăng, Lê Văn Đạt, Trần Thị Thúy Hằng và các hình dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. (Phong bì do Phòng KTHS - Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành).

Tịch thu 01 điện thoại di động SamSung màu trắng để sung công quỹ Nhà nước. Tịch thu để tiêu hủy 01 con dao nhọn cũ.

(Toàn bộ vật chứng gồm ma túy, điện thoại, dao trên đang tạm giữ tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa theo Biên bản giao nhận vật chứng số: 48/2021/TV-CTHADS ngày 28/12/2020).

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2021/HS-ST ngày 25/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về