TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 25/2021/HS-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 05 tháng 02 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo: Trịnh Minh T, sinh năm 1982, tại tỉnh Đồng Nai; hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T, thành phố T, tỉnh Tây Ninh; chỗ ở: Khu phố 1, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trịnh Văn C (đã chết) và bà Phùng Thị B, sinh năm 1958; vợ là Dương Thị N, sinh năm 1991 và 02 con sinh năm 2009, 2011; bị cáo có 04 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1978 và nhỏ nhất sinh năm 1984; tiền án: Ngày 18/9/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm về tội “ Vận chuyển hàng cấm” đối với hành vi thực hiện ngày 05/01/2020; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2020 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Công ty C.
Địa chỉ: Số 25 P, phường N, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông K – Chức danh: Tổng Giám đốc – có yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Ông Nguyễn Năng L, sinh năm 1997.
Địa chỉ: Số 56/7, khu phố 4, phường T, quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh - có yêu cầu xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ ngày 25/9/2020, lực lượng Công an thị xã Bến Cát đang tuần tra tại khu vực xã Phú An, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương thì phát hiện xe ô tô nhãn hiệu T, biển số 51G-387.70 do Trịnh Minh T điều khiển lưu thông trên đường ĐT 744 hướng từ Dầu Tiếng đến thành phố Thủ Dầu Một có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng lại kiểm tra thì phát hiện và thu giữ tang vật gồm:
+ 1.500 bao thuốc lá điếu hiệu Jet, 500 bao thuốc lá điếu hiệu Hero (tất cả đều không có dán tem và hình ảnh cảnh báo sức khỏe).
+ 01 xe ô tô nhãn hiệu T biển số 51G-387.70.
Tại cơ quan điều tra, Trịnh Minh T khai nhận: Trong một lần đi uống cà phê ở khu vực ngã ba Vũng Tàu thuộc phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, T quen biết với 01 người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) làm nghề buôn bán. Người đàn ông này có nhu cầu muốn mua thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Jet và Hero, do không có tiền tiêu xài, T đã nảy sinh ý định mua thuốc lá điếu nhập lậu về bán lại cho người đàn ông này để hưởng chênh lệch.
Khoảng 13 giờ ngày 25/9/2020, T đến thuê xe ô tô biển số 51G-387.70 của ông Nguyễn Năng L với giá 3.800.000 đồng/1 tuần, nói dối để làm phương tiện chở mẹ đi khám bệnh. Sau đó, T tìm gặp bạn tên Đặng Quốc T (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mượn số tiền 32.000.000 đồng để làm vốn đi mua thuốc lá. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 25/9/2020, T điều khiển xe ô tô biển số 51G- 387.70 từ ngã ba Vũng Tàu đến địa bàn huyện Đức Huệ, tỉnh Long An để mua thuốc lá điếu nhập lậu. Khi đến khu vực vòng xoay trung tâm huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, T hỏi những người làm nghề xe ôm “có biết ai bán thuốc lá điếu nhập lậu không” thì được họ hướng dẫn đi về hướng cửa khẩu ThoMo khoảng 700m sẽ có người bán thuốc lá điếu nhập lậu. T đi theo chỉ dẫn thì gặp 01 người đàn ông tên Tài (không rõ nhân thân lai lịch), người này đồng ý bán cho T 2.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó: 1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Jet với giá 17.000 đồng/1 bao và 500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Hero với giá 14.000 đồng/1 bao) tổng số tiền là 32.000.000 đồng. Sau khi, thanh toán tiền xong, Tài yêu cầu T điều khiển xe ô tô biển số 51G- 387.70 đi về hướng cửa khẩu ThoMo 200m có một bãi đất trống để xe ở đó và mở cốp xe ra để nhận thuốc lá điếu nhập lậu. Tại đây, Tài đem 05 bao tải màu trắng bên trong mỗi bao chứa 300 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Jet và 02 túi nilon màu đen bên trong mỗi túi có chứa 250 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Hero bỏ vào sau cốp xe ô tô biển số 51G-387.70. Khi nhận đủ số thuốc lá điếu nhập lậu, T điều khiển xe ô tô biển số 51G-387.70 chở số thuốc lá điếu nhập lậu vừa mua được hướng về ngã ba Vũng Tàu nhưng khi đến đoạn đường ĐT 744 thuộc khu vực ấp Phú Thứ, xã Phú An, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương thì Công an thị xã Bến Cát kiểm tra hành chính, phát hiện thu giữ toàn bộ số thuốc lá mua được.
Theo Công văn số 88/HHTL-GĐTL ngày 05/10/2020 của Hiệp hội thuốc lá Việt Nam về việc thẩm định thuốc lá điếu ngoại nhập lậu kết luận: Số thuốc lá thu giữ là thuốc lá điếu nhập lậu. Vì theo pháp luật hiện hành của Nhà nước, tất cả các loại thuốc lá điếu sản xuất, lưu thông hợp pháp trên thị trường nước ta (kể cả thuốc lá điếu nhập khẩu) đều có dán tem do Bộ tài chính ban hành sử dụng trên từng bao thuốc lá và có in cảnh báo sức khỏe bằng hình ảnh và bằng tiếng Việt Nam trên 02 mặt trước và sau của bao thuốc lá.
Đối với xe ô tô nhãn hiệu T biển số 51G-387.70 là xe của Công ty C cho ông Nguyễn Năng L thuê. Ngày 25/9/2020, ông L cho bị cáo thuê lại và không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện đi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu.
Tại bản Cáo trạng số 14/CT-VKSBC ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo về tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Trịnh Minh T mức án từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.
Về xử lý vật chứng:
- Ngày 13/01/2021, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương ra Quyết định xử lý vật chứng giao trả xe ô tô nhãn hiệu T biển số 51G- 387.70 cho Công ty C.
- Đối với 1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Jet và 500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Hero: Cần tịch thu tiêu hủy.
Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Ngày 25/9/2020, Trịnh Minh T có hành vi mua 1.500 bao thuốc lá điếu hiệu Jet, 500 bao thuốc lá điếu hiệu Hero (tất cả đều không có dán tem và hình ảnh cảnh báo sức khỏe) từ 01 người đàn ông tên Tài (không rõ nhân thân lai lịch) với mục đích bán lại cho người khác để hưởng chênh lệch. Khi bị cáo điều khiển xe mô tô hiệu T, biển số 51G-387.70 chở các bao thuốc lá về đến khu vực xã Phú An, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương thì bị Công an thị xã Bến Cát phát hiện, bắt giữ cùng tang vật.
Theo Công văn số 88/HHTL-GĐTL ngày 05/10/2020 của Hiệp hội thuốc lá Việt Nam về việc thẩm định thuốc lá điếu ngoại nhập lậu kết luận: Số thuốc lá thu giữ là thuốc lá điếu nhập lậu. Vì theo pháp luật hiện hành của Nhà nước, tất cả các loại thuốc lá điếu sản xuất, lưu thông hợp pháp trên thị trường nước ta (kể cả thuốc lá điếu nhập khẩu) đều có đán tem do Bộ tài chính ban hành sử dụng trên từng bao thuốc lá và có in cảnh báo sức khỏe bằng hình ảnh và bằng tiếng Việt Nam trên 02 mặt trước và sau của bao thuốc lá.
Như vậy, Cáo trạng số 14/CT-VKSBC ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Trịnh Minh T về tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cấm. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hành vi dân sự, nhận thức được việc buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì mục đích lợi nhuận mà vẫn cố ý thực hiện, nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.
[4] Ngày 18/9/2020, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm kể từ ngày tuyên án, về tội “Vận chuyển hàng cấm”. Trong thời gian thử thách khi được hưởng án treo, bị cáo lại có hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu. Do đó cần áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt và buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.
[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Vận chuyển hàng cấm”, trong thời gian thử thách khi được hưởng án treo thì ngày 25/9/2020, bị cáo tiếp tục có hành vi buôn bán hàng cấm. Do đó, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với tình tiết tăng nặng là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[7] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Jet và 500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Hero.
[8] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 7 của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
Tuyên bố bị cáo Trịnh Minh T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.
Xử phạt bị cáo Trịnh Minh T 02 (hai) năm tù.
Tổng hợp với hình phạt 01 (một) năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 179/2020/HSST ngày 18/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh; buộc bị cáo Trịnh Minh T phải chấp hành hình phạt chung là 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/9/2020, được khấu trừ vào thời gian tạm giữ từ ngày 05/01/2020 đến ngày 13/01/2020 tại Bản án số 179/2020/HS-ST ngày 18/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
Tịch thu tiêu hủy:
- 1.500 (một nghìn năm trăm) bao thuốc lá nhập lậu hiệu Jet (đã bị ẩm ướt, thấm mốc).
- 500 (năm trăm) bao thuốc lá nhập lậu hiệu Hero (đã bị ẩm ướt, thấm mốc).
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát).
3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trịnh Minh T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết công khai./.
Bản án 25/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 về tội buôn bán hàng cấm
Số hiệu: | 25/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về