Bản án 25/2021/HNGĐ-ST ngày 23/03/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỐT NỐT, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 25/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 23 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân quận Thốt Nốt - thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 29/2021/TLST-HNGĐ, ngày 13 tháng 01 năm 2021 về việc tranh chấp “Ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 02 năm 2021 và Thông báo mở lại phiên tòa số 45/TB-TA ngày 25 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn Ông Ngô Minh S - sinh năm: 1982 (có mặt) Địa chỉ: khu vực A, phường B, quận C, Tp. Cần Thơ.

Bị đơn Bà Nguyễn Thị T – sinh năm: 1978 (vắng mặt lần thứ 2) Địa chỉ: khu vực D, phường E, quận C, Tp. Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, biên bản hòa giải ngày 02/02/2021, nguyên đơn ông Ngô Minh S và bà bị đơn bà Nguyễn Thị T thống nhất trình bày như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Trước đây ông, bà do tự quen biết và tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào năm 2009 và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Tân Lộc ngày 12/11/2009. Vợ chồng chung sống đến năm 2014 thì ly thân cho đến nay, nguyên nhân mâu thuẫn theo ông S là do bà T không biết chăm sóc con, mọi việc trong gia đình đều do ông lo, vợ chồng ly thân đã 06 năm nhưng không hàn gắn được, nay không còn tình cảm nên ông xin hôn với bà T. Còn theo bà T cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do mẹ chồng khó tính chứ giữa vợ chồng cũng không có mâu thuẫn gì lớn, nay bà không muốn ly hôn vì còn thương chồng con.

- Về con chung: Vợ chồng chung sống có 03 con chung tên Ngô Minh Đ – sinh ngày 08/7/2010, Ngô Gia M – sinh ngày 28/8/2011 và Ngô Gia H – sinh ngày 11/01/2013, cháu Đ và Minh do ông S đang trực tiếp nuôi dưỡng, cháu Hân do bà T đang nuôi dưỡng. Trường hợp ly hôn, ông bà thống nhất giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay tức là ông S được quyền nuôi dưỡng cháu Ngô Minh Đ và Ngô Gia M, bà T được quyền nuôi dưỡng cháu Ngô Gia H, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.

- Về tài sản chung và nợ chung: Ông, bà xác định không có, không yêu cầu giải quyết.

Tòa án có phân tích, động viên các đương sự thỏa thuận với nhau nhưng cuối cùng ông S vẫn giữ nguyên ý kiến kiên quyết xin ly hôn với bà T, vụ án hòa giải không thành nên được đưa ra xét xử công khai.

Tại phiên toà hôm nay: Nguyên đơn ông S xác định vợ chồng ly thân 06 năm không hàn gắn được, không còn tình cảm, không thể tiếp tục sống chung nên vẫn giữ nguyên ý kiến kiên quyết xin ly hôn với bà T. Bị đơn bà T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng từ khi Toà án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử và tại phiên toà của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự là đúng theo quy định pháp luật. Đồng thời, phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn cho ông S được ly hôn với bà T.

Về con chung: Tiếp tục giao cho ông S được quyền nuôi dưỡng cháu Ngô Minh Đ và Ngô Gia M, bà T được quyền nuôi dưỡng cháu Ngô Gia H, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.

Về tài sản chung và nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình tranh chấp về việc “Ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và Điều 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về thủ tục tố tụng: Xét việc bị đơn bà Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không có lý do, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng anh Hải vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, căn cứ theo Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là phù hợp.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân giữa ông S và bà T là do tự quen biết và tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và ly thân từ năm 2014 đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình chung sống giữa ông S và bà T bất đồng quan điểm, mâu thuẫn kéo dài đã hơn 06 năm, mỗi người sống một nơi, cả hai bên không tìm được biện pháp để vợ chồng hàn gắn. Tòa án cũng đã động viên hòa giải nhưng ông S vẫn giữ ý kiến không đồng ý tiếp tục chung sống và cương quyết ly hôn với bà T, điều này cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng là trầm trọng vì hôn nhân phải xuất phát từ tình cảm và tự nguyện của hai bên, về phía bà T không đồng ý ly hôn và xin được đoàn tụ nhưng không tìm được biện pháp hàn gắn để thuyết phục ông S chung sống. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân thì cũng không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không Đ được do đó nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho ông S được ly hôn với bà T là phù hợp.

[3] Về con chung: Ông S và bà T thống nhất xác định có 03 con chung tên Ngô Minh Đ – sinh ngày 08/7/2010, Ngô Gia M – sinh ngày 28/8/2011 và Ngô Gia H – sinh ngày 11/01/2013, cháu Đ và M do ông S đang trực tiếp nuôi dưỡng, cháu H do bà T đang nuôi dưỡng. Trường hợp ly hôn, ông bà thống nhất giữ nguyên tình trạng nuôi con như hiện nay tức là ông S được quyền nuôi dưỡng cháu Ngô Minh Đ và Ngô Gia M, bà T được quyền nuôi dưỡng cháu Ngô Gia H, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai. Hội đồng xét xử xét thấy, sự thỏa thuận của các đương sự là phù hợp, nghĩ nên chấp nhận.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: không ai yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt vấn đề giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Ông S và bà T xác định không có.

[5] Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn ông S phải chịu án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 28, 35, 39, 147 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân & gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử: Về quan hệ hôn nhân : Chấp nhận yêu cầu cho ông Ngô Minh S được ly hôn với bà Nguyễn Thị T.

Về con chung : Có 03 con chung tên Ngô Minh Đ – sinh ngày 08/7/2010, Ngô Gia M – sinh ngày 28/8/2011 và Ngô Gia H – sinh ngày 11/01/2013, cháu Đ và cháu M do ông S đang nuôi dưỡng, cháu H do bà T đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn, tiếp tục giao cho ông S được quyền nuôi dưỡng cháu Ngô Minh Đ và Ngô Gia M; giao cho bà T được quyền nuôi dưỡng cháu Ngô Gia H, không ai phải cấp dưỡng nuôi con cho ai.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông S và bà T, không ai có quyền cản trở. Ông S và bà T có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con vì lợi ích của con theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Ngô Thanh S phải nộp số tiền 300.000đồng (Ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ từ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/012713 ngày 07/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thốt Nốt (công nhận đã nộp xong).

Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2021/HNGĐ-ST ngày 23/03/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:25/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thốt Nốt - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về