Bản án 25/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀ AN, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hoà An, Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2020/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Hoàng Văn C; sinh ngày 16 tháng 10 năm 1995 tại huyện QH, Cao Bằng; Nơi ĐKHKTT: Xóm QT, xã PS, huyện QH, Cao Bằng; nơi tạm trú: Tổ 14, phường TG, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn K (đã chết) và bà Phùng Thị N, sinh năm 1973:

vợ, con chưa có; tiền án, tiền sự: Không:

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 01/6/2020; Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nông Văn D1 - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Cao Bằng. Có mặt.

Người làm chứng:

1. Nông Bình D, sinh năm 1981 Nơi cư trú: Phố G, thị trấn NH, huyện A, Cao Bằng. Vắng mặt có lý do.

2. Nông Hứa T, sinh năm 1999 Nơi cư trú: Xóm NP, xã Q, huyện H, Cao Bằng. Vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 30 phút ngày 01/6/2020, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm Hình sự - Kinh tế - Ma tuý Công an huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng đang làm nhiệm vụ tại khu vực thị trấn Nước Hai phát hiện đối tượng Hoàng Văn C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, thu giữ 01 chiếc ví màu đen ở túi quần bên phải C đang mặc, trong ví có 05 (năm) gói nhỏ được gói bằng giấy bạc màu vàng, bên trong các gói nhỏ có chứa chất bột màu trắng, C khai là Heroine có tổng khối lượng là 0,1124g (không phẩy một một hai bốn gam); 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh đen; 01 xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE S, màu đỏ đen, biển kiểm soát: 11K1-052.17 và 450.000,đ (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng) tiền Việt Nam.

Tại bản kết luận số 169/GĐMT ngày 14/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroin”.

Tại cơ quan điều tra Hoàng Văn C khai nhận số Heroin bị bắt quả tang là của C, nguồn gốc số Heroin trên C mua với một người phụ nữ khoảng 30 tuổi, tên Hương (không biết họ), có địa chỉ tại khu vực trường Trung cấp y thành phố CB với giá 500.000,đ, sau đó mang về chia ra thành nhiều gói nhỏ với mục đích vừa để sử dụng cho bản thân và bán lại kiếm lời. Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 01/6/2020, sau khi nhắn tin giao dịch qua FaceBook C một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 11K1-052.17 từ thành phố CB đi đến nhà Nông Bình D ở phố G, thị trấn NH, huyện A, Cao Bằng và bán cho D 01 gói nhỏ Heroine với giá 100.000,đ. Đến 13 giờ 30 phút cùng ngày khi C đang quay về nhà thì bị Công an huyện Hòa An kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Ngoài lần bị bắt quả tang này C còn được mua Heroine với người phụ nữ tên Hương 02 lần trong năm 2020 và bán lại cho Nông Hứa T (sinh năm 1999; trú tại xã Q, huyện H, Cao Bằng) 03 lần, lần thứ nhất vào đầu tháng 5/2020 và lần thứ hai khoảng giữa tháng 5/2020 nhưng không nhớ ngày, lần thứ ba vào ngày 29/5/2020; Nông Bình D (sinh năm 1981; trú tại Phố G, thị trấn NH, huyện A, Cao Bằng) 02 lần, lần thứ nhất vào đầu tháng 5/2020 và lần thứ hai khoảng giữa tháng 5/2020 nhưng không nhớ ngày, mỗi lần 01 gói nhỏ với giá 100.000,đ. Trước khi mua giữa C và D, T đều gọi điện thoại nói số lượng Heroine, giá tiền trước, sau đó C sẽ mang Heroine đến chỗ hẹn đưa cho D, T và nhận tiền.

Bản cáo trạng số 28/CT-VKSHA ngày 10/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoà An, Cao Bằng đã truy tố bị cáo Hoàng Văn C về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định điểm b tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 07 năm đến 7 năm 6 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng đối với bị cáo.

Về việc xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị HĐXX:

- Tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh đen, số IMEL 1: 8642.6704.3895.739; IMEL 2:

8642.6704.3895.721, số thuê bao 1: 0968.821.894, số thuê bao 2: 0382.398.430.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) do bị cáo bán ma túy và hoàn trả cho bị cáo số tiền 250.000đ (Hai trăm năm mươi nghìn đồng) là tiền cá nhân của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội. Nhưng tạm thu để đảm bảo cho việc Thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 Luận cứ của người bào chữa cho bị cáo: Về nội dung của vụ án đã được làm rõ, tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Mặt khác, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống trong hoàn cảnh gia đình bần nông, trình độ chỉ học đến lớp 11/12 nên còn hạn chế về nhận thức pháp luật dẫn đến vi phạm pháp luật. Người bào chữa cũng nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát và đề nghị HĐXX xem xét, tại bản tự khai ngày 01/6/2020, bị cáo đã tự nguyện khai ra việc bán Heroin cho Nông Hứa T khi chưa bị phát hiện, do vậy, đề nghị áp dụng tình tiết người phạm tội tự thú để bị cáo được hưởng mức án thấp.

Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên về tội danh cũng như mức hình phạt; Đại diện viện kiểm sát có đối đáp về ý kiến của người bào chữa là do trong quá trình điều tra tại bản khai ngày 03/6/2020 lời khai vẫn còn mâu thuẫn với bản tự khai, bị cáo không thừa nhận được bán Heroin cho T do đó, không áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo. Tuy nhiên trong lời nói sau cùng, bị cáo có yêu cầu đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An, của Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã tuân thủ đúng về trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo đã thực hiện, tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo; lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với lời khai của người làm chứng, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, qua đó đã xác định được bị cáo Hoàng Văn C là người nghiện ma tuý, để phục vụ nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã mua Heroine về sử dụng và bán lại kiếm lời.

Heroine là một dạng ma túy độc dược gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý và nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chiếm đoạt và sử dụng trái phép. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi mua bán ma túy là vi phạm pháp luật hình sự, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội với mục đích phục vụ mục đích kiếm lời. Như vậy, hành vi mua bán trái phép Heroine của bị cáo thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự; Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An truy tố bị cáo về tội "Mua bán trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Từ những nhận định và các chứng cứ nêu trên có đầy đủ căn cứ để kết luận bị cáo Hoàng Văn C phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Đối với luận cứ của người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát và có đề nghị HĐXX xem xét, tại bản tự khai ngày 01/6/2020, bị cáo đã tự nguyện khai ra việc bán Heroin cho Nông Hứa T khi chưa bị phát hiện, do vậy, đề nghị áp dụng tình tiết người phạm tội tự thú quy định tại điểm r khoản 1điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức án thấp. Hội đồng xét xử xét thấy tình tiết này không thuộc trường hợp được áp dụng tình tiết giảm nhẹ người phạm tội tự thú cho bị cáo. Do vậy, ý kiến của người bào chữa đưa ra không được chấp nhận.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy hành vi của bị cáo là nghiêm trọng; Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn, hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Như vậy, khi xem xét mức hình phạt cần có mức hình phạt tương xứng, bản thân bị cáo nghiện ma túy nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng để trừng trị, cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội cũng như đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

Ngoài hình phạt chính, tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự còn quy định hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với người phạm tội danh này. Xét thấy bị cáo nghiện ma túy, là người lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Đối với người phụ nữ tên Hương (không rõ họ) đã bán ma túy cho bị cáo, qua điều tra, xác minh Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xử lý trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

Các đối tượng Nông Bình D, Nông Hứa T mua ma túy với Hoàng Văn C nhằm mục đích là để sử dụng, không nhằm mục đích mua bán, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hòa An đã xử phạt hành chính theo đúng quy định, HĐXX không có căn cứ để xử lý trong cùng vụ án.

[5] Về việc xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, - Đối với số Heroin thu giữ được, có trọng lượng 0,1124g đã được niêm phong và đưa làm mẫu vật phục vụ cho công tác giám định, do số lượng ít nên cơ quan giám định sử dụng hết làm mẫu giám định không trả lại mẫu (vật chứng) cho cơ quan C sát điều tra công an huyện Hòa An, nên HĐXX không đặt vấn đề xem xét.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave S màu đỏ đen, biển kiểm soát 11K1-052.17 không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Hòa An đã trả lại cho chủ sở hữu bà Phùng Thị M tại biên bản trả đồ vật, tài sản bị tạm giữ ngày 11/6/2020 đúng quy định nên HĐXX không đặt vấn đề xem xét.

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh đen, số IMEL 1: 8642.6704.3895.739; IMEL 2: 8642.6704.3895.721, số thuê bao 1:

0968.821.894, số thuê bao 2: 0382.398.430 bị cáo dùng để liên lạc, giao dịch mua bán ma túy với các đối tượng nghiện nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 450.000,đ (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng), gồm: 02 tờ mệnh giá 200.000,đ, số seri: 11670966, 19276953; 02 tờ mệnh giá 20.000,đ, số seri: 18390430, 18421924; 01 tờ mệnh giá 10.000,đ, số seri: 18011246 đựng trong phong bì có niêm phong. Tại phiên tòa bị cáo khai có 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước. Còn số tiền 250.000đ (Hai trăm năm mươi nghìn đồng) là tiền cá nhân của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần hoàn trả lại cho bị cáo là phù hợp. Nhưng tạm thu số tiền này để đảm bảo cho việc thi hành án.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

 Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn C phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

 Xử phạt bị cáo Hoàng Văn C 07 (Bẩy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt giữ ngày 01/6/2020.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

2. Về việc xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên xử:

- Tịch thu phát mại để sung quỹ nhà nước: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh đen, số IMEL 1: 8642.6704.3895.739; IMEL 2:

8642.6704.3895.721, số thuê bao 1: 0968.821.894, số thuê bao 2: 0382.398.430.

- Tịch thu sung quỹ nhà Nước số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng):

- Hoàn trả cho bị cáo Hoàng Văn C số tiền 250.000đ (Hai trăm năm mươi nghìn đồng) nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Số tiền có trong 01 phong bì niêm phong theo quy định, bên trong phong bì có số tiền 450.000,đ (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng), gồm: 02 tờ mệnh giá 200.000,đ, số seri: 11670966, 19276953; 02 tờ mệnh giá 20.000,đ, số seri:

18390430, 18421924; 01 tờ mệnh giá 10.000,đ, số seri: 18011246).

Xác nhận số vật chứng hiện nay đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hòa An, Cao Bằng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 32 ngày 12/8/2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án:

Buộc bị cáo Hoàng Văn C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về