Bản án 25/2020/HSST ngày 29/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 25/2020/HSST NGÀY 29/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 29 tháng 6 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng K, sinh ngày 01/3/1997; tại V C, Sóc Trăng; Nơi cư trú: số X, đường Đ K, Khóm Y, Phường X, thị xã V C, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Văn T (s) và bà Huỳnh Thị V (s); Anh, chị, em ruột có: 04 người; Vợ: Nguyễn Thị Thoại M và chưa có con; Tiền án, tiền sự: không có; Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 25/02/2020 cho đến nay; (Bị cáo có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị Thùy D, sinh năm 1989; Nơi cư trú: Khóm Y, Phường X, thị xã V C , tỉnh Sóc Trăng; (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 40 phút ngày 22/01/2020, Tổ tuần tra kiểm soát giao thông Công an thị xã V C tuần tra trên tuyến đường L L, Khóm r, phường x, thị xã V C, tỉnh Sóc Trăng tiến hành dừng xe và kiểm tra phương tiện tham gia giao thông đối với xe mô tô biển số 95G1-114.60 do bị cáo Nguyễn Hoàng K điều khiển. Tổ tuần tra tiến hành kiểm tra phương tiện thì phát hiện trong cốp xe của bị cáo K có cất giấu bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Tổ tuần tra đưa bị cáo K về trụ sở Công an phường 1 làm việc thì phát hiện trong bóp da màu nâu của K có cất giấu 01 bịch có chứa tinh thể màu trắng là chất ma túy đá. Sau đó, tiến hành lập biên bản bắt quả tang bị cáo Nguyễn Hoàng K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và tiến hành thu giữ vật chứng nêu trên. Toàn bộ số ma túy nêu trên, bị cáo Nguyễn Hoàng K khai mua của một người thanh niên (không xác định họ tên và địa chỉ) vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 21/01/2020 tại ngã ba G D thuộc Khóm R, Phường X, thị xã V C với giá 300.000 đồng đem về cất giấu để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số: 16/GĐMT-PC09 ngày 13/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận:

Mẫu tinh thể được niêm phong gửi giám định là ma túy có tổng khối lượng 0,1223 gam loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Nguyễn Hoàng K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số: 22/CT-VKS-VC ngày 04/6/2020 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 ( sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu giữ quyền công t luận tội và tranh luận

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hoàng K thừa nhận hành vi phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như đã nêu trên đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Xét thấy, hành vi của bị cáo Nguyễn Hoàng K có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Hoàng K. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hoàng K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng K mức án từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù; Đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Nguyễn Hoàng K do không có nghề nghiệp ổn định.

Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 túi nylon không màu chứa ma túy, có khối lượng 0,0760gam; 01 ống thủy tinh (cái nỏ); 05 ống hút nhựa màu trắng;

+ Trả cho bị cáo Nguyễn Hoàng K: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng và 01 bóp da màu nâu do không liên quan đến hành vi phạm tội;

+ Trả cho bà Nguyễn Thị Thùy D: 01 xe mô tô biển số 95G1-114.60 nhãn hiệu Yamaha Sirius.

Theo Phiếu nhập kho số: NK47 ngày 12/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu.

- Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hoàng K thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng truy tố; thống nhất ý kiến đề nghị của Vị Kiểm sát viên; về hình phạt: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Tại phiên tòa; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Thùy D trình bày.

Chiếc xe mô tô biển số 95G1-114.60 là của bà Nguyễn Thị Thùy D đứng tên chủ sở hữu hợp pháp. Tuy nhiên, chiếc xe này bà D cho bị cáo Nguyễn Hoàng K mượn để đi chơi. Còn việc bị cáo K sử dụng chiếc xe nêu trên đi mua ma túy về sử dụng thì bà D không biết. Nay bà Nguyễn Thị Thùy D xin được nhận lại chiếc xe nêu trên để làm phương tiện phục vụ cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã V C, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật; Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng minh và chứng cứ: Xét thấy, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã V C đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật được quy định tại các Điều 85, 86, 87, 88, 89, 90, 94, 98, 100, 102, 104, 105, 106, 108 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Hoàng K đã thừa nhận: Bị cáo Nguyễn Hoàng K mua ma túy của người khác đem về cất giấu trong nhà để sử dụng. Xét thấy, lời nhận tội của bị cáo Nguyễn Hoàng K là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 22/01/2020 và vật chứng thu giữ; biên bản khám nghiệm hiện trường; Kết luận giám định số: 16/GĐMT-PC09 ngày 13/02/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cụ thể: Vào khoảng 20 giờ ngày 22/01/2020, bị cáo Nguyễn Hoàng K mua 01 bịch ma túy lớn của người thanh niên lạ mặt tại Ngã ba G D thuộc khóm 7 phường 1, thị xã Vĩnh Châu với giá 300.000 đồng cất giấu trong người để sử dụng. Đến 21 giờ 00 phút ngày 22/01/2020 bị Công an thị xã V C và Công an Phường 1 kiểm tra, lập biên bản bắt quả tang và thu giữ các vật chứng nêu trên. Xét thấy, hành vi của bị cáo Nguyễn Hoàng K đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo Nguyễn Hoàng K tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng là 0,1223gam loại Methamphetamine. Như vậy, đối chiếu với quy định nêu trên thì hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hoàng K đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm như đã nêu trên. Xét thấy, Cáo trạng số: 22/CT-VKS-VC ngày 04/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng K, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[4] Động cơ phạm tội của bị cáo Nguyễn Hoàng K là nhằm mục đích mua ma túy về sử dụng để thỏa mãn nhu cầu cá nhân của mình. Ý thức chủ quan của bị cáo Nguyễn Hoàng K là tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp.

[5] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hoàng K đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng đã nêu và xác định Cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan sai và thống nhất với ý kiến luận tội của Vị Kiểm sát viên. Bị cáo Nguyễn Hoàng K xin giảm nhẹ hình phạt.

[6] Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hoàng K là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được rằng việc tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine) là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi mua ma túy về cất giấu nhằm để phục vụ lợi ích cá nhân. Hiện nay, trên địa bàn thị xã Vĩnh Châu việc mua ma túy về sử dụng ngày càng gia tăng và gây bức xúc trong dư luận xã hội. Do đó, đối với bị cáo K cần phải có một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, mục đích nhằm để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Nguyễn Hoàng K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Sau khi phạm tội có thành khẩn khai báo; Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; Bị cáo có trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật cũng còn hạn chế; Bị cáo là bộ đội phục viên và gia đình có ông ngoại được Nhà nước tặng danh hiệu « Huân chương kháng chiến hạng nhất ». Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Đối với người bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Hoàng K do không xác định được họ tên và địa chỉ cụ thể, nên cơ quan điều tra Công an thị xã V C chưa làm việc được. Đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ, có căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với Nguyễn Thị Thùy D không biết bị cáo Nguyễn Hoàng K sử dụng chiếc xe 95G1-114.60 làm phương tiện phạm tội. Đồng thời, cơ quan điều tra Công an thị xã V C không có căn cứ chứng minh nên không xử lý là đúng quy định của pháp luật. Do đó, trả lại cho bà Nguyễn Thị Thùy D chiếc xe 95G1-114.60 là phù hợp với quy định của pháp luật.

[11] Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, b, c khoản 2 và khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 túi nylon không màu chứa ma túy, có khối lượng 0,0760gam; 01 ống thủy tinh (cái nỏ); 05 ống hút nhựa màu trắng;

+ Trả cho bị cáo Nguyễn Hoàng K: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng và 01 bóp da màu nâu do không liên quan đến hành vi phạm tội;

+ Trả cho bà Nguyễn Thị Thùy D: 01 xe mô tô biển số 95G1-114.60 nhãn hiệu Yamaha Sirius.

Theo Phiếu nhập kho số: NK47 ngày 12/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu.

[12] Về án phí hình sự sơ thẩm:

Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[13] Tại phiên tòa, xét thấy đề nghị của Vị Kiểm sát viên là có cơ sở, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hoàng K, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hoàng K, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Căn cứ vào: điểm c khoản 1 và khoản 5 Điều 249; khoản 2 Điều 35; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên xử:

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng K: 01 (một) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày tự nguyện thi hành án hoặc bắt thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Hoàng K số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, b, c khoản 2 và khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 túi nylon không màu chứa ma túy, có khối lượng 0,0760gam; 01 ống thủy tinh (cái nỏ); 05 ống hút nhựa màu trắng;

+ Trả cho bị cáo Nguyễn Hoàng K: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng và 01 bóp da màu nâu do không liên quan đến hành vi phạm tội;

+ Trả cho bà Nguyễn Thị Thùy D: 01 xe mô tô biển số 95G1-114.60 nhãn hiệu Yamaha Sirius.

Theo Phiếu nhập kho số: NK47 ngày 12/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng K phải chịu án phí hình sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HSST ngày 29/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về