Bản án 25/2020/HS-PT ngày 18/02/2020 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 25/2020/HS-PT NGÀY 18/02/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 18 tháng 02 năm 2020 tại Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử phúc thẩm vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 01/2020/TLPT-HS ngày 02/01/2020 do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 649/2019/HSST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Bị cáo: Nhì Quốc H; Sinh ngày 07/3/1986 tại thành phố Thái Nguyên; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tô 28, phương PĐP, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 04/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nhì Văn H1 (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị B (đã chết); Gia đình có 5 chị em, bị cáo là con thứ 4; Vơ, con : Chưa có; Tiền sự, tiền án: Không có; Nhân thân: Ngày 17/10/2008, Công an phường Phan Đình Phùng, thành phố Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền với mức phạt là 150.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Ngày 10/9/2009, Công an phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền với mức phạt là 150.000đ về hành vi “Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản người khác”; Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, hiện đang tại ngoại tại nơi cư trú;(Có mặt).

2. Bị cáo Nguyên Quang H2; Sinh ngày 18/6/1992 tại thành phố Thái Nguyên; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tô 28, phương PĐP, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 09/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T (đã chết); con bà: Nguyễn Thị B (đã chết); Gia đình có 5 chị em, bị cáo là con thứ 5. (3 anh, chị cùng mẹ, khác cha); Vơ, con : Chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án: Tại bản án số 180/2011/HSST ngày 13/6/2011 bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 8 năm tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy, ra trại ngày 24/5/2017; bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, hiện đang tại ngoại tại nơi cư trú; Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo H2: Ông Bùi Văn L - Văn phòng luật sư Thái Dương, Đoàn luật sư tỉnh Thái Nguyên.(có mặt).

* Bị hại không có kháng cáo: Anh Phùng Văn Q, sinh năm 2000; Địa chỉ: Xóm LT, xã TĐ, TP TN, Thái Nguyên; (Vắng mặt).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo:

1.Chị Định Thị Thương H3, sinh năm 1986; Địa chỉ: Tổ 19, phường TĐ, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; (Vắng mặt).

2. Anh Lê Văn H4, sinh năm 1985; ĐKHKTT: Tổ 33, phường QT, TP TN, tỉnh Thái Nguyên;(Vắng mặt).

3. Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm1988; Địa chỉ: Xóm BT, xã QT1, TP TN, tỉnh Thái Nguyên; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phùng Văn Q và Nguyễn Quang H2 có làm thuê cùng nhau. Ngày 20/3/2019 anh Q nhìn thấy H2 sử dụng 01 chiếc điện thoại Iphone 6, Q đề nghị đổi chiếc điện thoại Iphone 5 của Q lấy chiếc điện thoại Iphone 6 của H2 đồng thời Q sẽ trả thêm cho H2 số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng). H2 đồng ý. Sau đó Q và H2 đổi điện thoại cho nhau, Q hẹn sau 05 ngày kể từ ngày đổi điện thoại Q sẽ trả tiền. Tuy nhiên, khi đến hẹn Q không trả tiền cho H2. H2 đến nhà Q để đòi tiền nhưng không gặp và biết Q đã đến CB làm việc. H2 nhiều lần liên lạc với Q nhưng không được khiến H2 bức xúc nói với gia đình Q là Q lừa đảo chiếm đoạt tiền của H2.

Chiều ngày 14/6/2019, Q đi từ CB về nhà được gia đình cho biết H2 đã nhiều lần đến nhà nói Q có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Q nhờ anh Nguyễn Văn T1 gọi điện hẹn H2 đến nhà Q nói chuyện. Bản thân H2 lo sợ đi một mình đến nhà anh Q sẽ bị đánh nên H2 gọi điện rủ Nhì Quốc H (Là anh cùng mẹ khác cha với H2) đến nhà Q cùng nói chuyện thì H đồng ý. Sau đó, H lấy xe máy chở H2 vào nhà anh Q. Trên đường đi H2 nhận được điện thoại của T1 hẹn gặp H2 tại quán “Bia H4” thuộc tổ 19, phường TĐ, thành phố Thái Nguyên do anh Lê Anh H4 làm chủ.

Khong 18 giờ, tại quán “Bia H4”, Q, T1 vào ngồi cùng bàn với H, H2 rồi gọi 04 cốc bia (Loại cốc thủy tinh có quai cầm, cao 12 cm, đường kính miệng rộng khoảng 7,5cm, đường kính đáy rộng khoảng 6,5cm ) ra mời nhau uống. Trong quá trình nói chuyện H2 yêu cầu Q trả tiền, Q không trả mà chửi H2: “Đmẹ anh, anh dám vào nhà em bảo bố mẹ em là em lừa anh hai triệu à”. H2 đáp lại: “Mẹ tao chết rồi, mày đừng có chửi”. Q tiếp tục có lời lẽ thách thức: “Hai mươi ngày nữa tao trả, khi nào có tiền tao trả, mày cứ tính lãi lên”. H thấy Q không trả tiền mà còn chửi bới, thái độ thách thức nên khi Q đưa cốc bia lên miệng để uống thì bất ngờ H đứng dậy cầm 01 cốc bia ở trước mặt đập thẳng vào mặt Q và trúng vào cốc bia của Q khiến cả 02 cốc vỡ thành nhiều mảnh, các mảnh vỡ bắn ra đâm vào mắt phải, môi của Q gây ra các thương tích ở vùng mặt của anh Q. Nhìn thấy H đánh Q, H2 lo sợ Q kháng cự lại và muốn giúp H đánh Q nên H2 đứng dậy cầm 01 cốc bia ở trước mặt đập 02 nhát trúng vào đầu của Q khiến cốc bia vỡ thành nhiều mảnh, Q ngã gục xuống nền nhà. H2 tiếp tục dùng chân phải đá 02 cái vào phía bụng của Q thì anh T1 vào can ngăn nhưng H nghĩ anh T1 lao vào đánh H2 nên H tiếp tục cầm 01 cốc bia (Loại cốc thủy tinh) ở bàn bên cạnh đập 01 cái trúng vào vai trái của anh T1. Anh T1 bỏ chạy ra ngoài đường, H2 và H tiếp tục đuổi theo để đánh nhưng mọi người có mặt đã can ngăn. Q được đưa đến bệnh viện A Thái Nguyên cấp cứu thì sự việc dừng lại.

Hậu quả: Anh Phùng Văn Q bị thương và phải điều trị tại bệnh viện A Thái Nguyên, anh Nguyễn Văn T1 bị một vết sưng ở vùng đỉnh đầu, một vết sưng ở vùng bả vai trái.

Ti bệnh án ngoại khoa số 19036909 của Bệnh viện A Thái Nguyên xác định: Anh Phùng Văn Q vào viện hồi 18 giờ 42 phút ngày 14/6/2019, ra viện ngày 18/6/2019, bị các vết thương như sau; Vùng đầu có vết thương KT 4cm rách da chảy máu nhiều, vùng mặt có 5 vết thương KT 5cm chảy máu nhiều, tai có 2 vết thương KT 1cm, ngực có vết thương KT 3cm sắc gọn chảy máu, mắt phải có vết thương phức tạp rách da chảy máu nhiều KT 5cm, rách giác mạc tổn thương nhãn cầu.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 315/TgT ngày 01/7/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Thái Nguyên kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Phùng Văn Q do thương tích gây nên hiện tại là 24% (Hai mươi bốn phần trăm). Cơ chế hình thành thương tích: Do vật có cạnh sắc gây nên. Trong đó: Chấn thương mắt là 17%; sẹo vùng mặt là 4%; Sẹo vùng ngực là 1%; Sẹo vùng đầu và tai là 4%.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 321/TgT ngày 01/7/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Thái Nguyên kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của Nguyễn Văn T1 do thương tích gây nên hiện tại là 0% (Không phần trăm).

Về dân sự: Nhì Quốc H và Nguyễn Quang H2 đã bồi thường xong cho anh Phùng Văn Q, anh Q không yêu cầu gì thêm và xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho H và H2.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Nhì Quốc H và Nguyễn Quang H2 thừa nhận hành vi phạm tội.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 649/2019/HSST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Nhì Quốc H, Nguyễn Quang H2 phạm tội: “Cố ý gây thương tích”;

Căn cứ vào: Điểm đ khoản 2 Điều 134; Điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt: Nhì Quốc H 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời gian chấp hành án kể từ ngày bị cáo thi hành bản án có hiệu lực pháp luật.

Căn cứ vào: Điểm đ khoản 2 Điều 134; Điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt: Nguyễn Quang H2 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời gian chấp hành án kể từ ngày bị cáo thi hành bản án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Án sơ thẩm xử xong, ngày 10/12/2019 bị cáo Nguyễn Quang H2 kháng cáo đề nghị xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự và đình chỉ vụ án do bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu không đình chỉ vụ án thì xin được hưởng mức án thấp hơn mức khởi điểm của khung hình phạt được quy định trong điều luật. Ngày 13/12/2019 bị cáo Nhì Quốc H kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo xin đề nghị giảm án.

Trong phần phát biểu quan điểm giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nhì Quốc H, Nguyễn Quang H2, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quang H2 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho 2 bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ là phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân theo điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; người bị hại tiếp tục xin giảm nhẹ cho 2 bị cáo. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, xem xét cho 2 bị cáo được hưởng mức án thấp hơn mức khởi điểm của khung hình phạt.

Trong lời nói sau cùng bị cáo Nhì Quốc H đề nghị xử phạt cả 2 bị cáo mức án cao nhất để làm gương cho người khác. Bị cáo Nguyễn Quang H2 xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo Nhì Quốc H, Nguyễn Quang H2 được làm trong hạn luật định là hợp lệ.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đều thành khẩn nhận tội. Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ ngày 14/6/2019 tại quán “Bia H4” thuộc tổ 19, phường TĐ, thành phố Thái Nguyên, do Phùng Văn Q nợ tiền H2 nhưng khi gặp H2, Q lại có lời nói xúc phạm đối với H2 và H nên Nhì Quốc H đã dùng 1 chiếc cốc thủy tinh (loại cốc thủy tinh có quai cầm, cao 12 cm, đường kính miệng rộng khoảng 7,5cm, đường kính đáy rộng khoảng 6,5cm) đập thẳng vào mặt anh Phùng Văn Q và trúng vào cốc bia của anh Q đang cầm khiến cả 02 cốc vỡ thành nhiều mảnh, các mảnh vỡ bắn ra đâm vào mắt phải, môi và các thương tích ở vùng mặt của anh Q, tiếp đó Nguyễn Quang H2 cầm 01 cốc bia đập 02 nhát trúng vào đầu của Q và dùng chân phải đá vào phía bụng của anh Q. H quả anh Q bị thương tích, tỷ lệ tổn thương là 24%. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Với hành vi nêu trên, bản án sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo Nhì Quốc H, Nguyễn Quang H2 về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bản án sơ thẩm đã đánh giá tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo mức án như đã tuyên là phù hợp, đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung. Tại phiên tòa hôm nay, không phát sinh tình tiết gì mới nên cần giữ nguyên án sơ thẩm là phù hợp.

[4] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận lời đề nghị nêu trên.

[5] Xét lời đề nghị của người bào chữa cho bị cáo H2 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho 2 bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ là phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân theo điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, xem xét cho 2 bị cáo được hưởng mức án thấp hơn mức khởi điểm của khung hình phạt là không có căn cứ bởi lẽ, người bị hại đã nợ tiền nhưng lại có hành vi chửi bới đối với các bị cáo chỉ là trái với đạo đức xã hội chứ không phải là hành vi trái pháp luật của nạn nhân nên bản án sơ thẩm xác định người bị hại có lỗi là có căn cứ. Hội đồng xét xử không chấp nhận lời đề nghị nêu trên của vị luật sư.

[6] Các quyết định khác không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nhì Quốc H, Nguyễn Quang H2, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 649/2019/HSST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

1/ Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nhì Quốc H 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành bản án.

2/ Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Quang H2 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành bản án.

3/ Các quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4/ Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí: buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm sung quỹ nhà nước.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HS-PT ngày 18/02/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:25/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về