Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 29/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 25/2020/HNGĐ-ST NY 29/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 29/5/2020, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 547/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2019, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24/4/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 19/2020/QĐST-HNGĐ ngày 12/5/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trương Thị Th, sinh năm 1991

Nơi cư trú: Ấp 4, xã NCT, huyện TP, tỉnh ĐN.

- Bị đơn: Anh Trần Minh Tr, sinh năm 1989

Nơi cư trú: Ấp 1 (Ấp 5 cũ), xã TL, huyện TP, tỉnh ĐN.

(Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/11/2019 và lời khai trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án, nguyên đơn chị Trương Thị Th trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trần Minh Tr tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Tà Lài, huyện Tân Phú cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 31/12/2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung tại nhà cha mẹ ruột của anh Tr được khoảng 03 tháng thì dọn ra thuê trọ và ở riêng được khoảng 05 tháng. Lúc này, anh Tr thường xuyên chơi bời, không chăm lo cho gia đình. Ngoài ra, do bị sẩy thai nên chị về nhà cha mẹ đẻ tại Ấp 4, xã Nam Cát Tiên để tĩnh dưỡng; còn anh Tr về nhà cha mẹ đẻ ở Tà Lài sinh sống. Năm 2016, anh Tr chuyển vào sống chung với chị cho đến khi chị sinh cháu Trần Trương Khánh L, sinh ngày 27/7/2017 thì anh Tr chuyển về nhà cha mẹ đẻ anh Tr sinh sống. Trong thời gian sống chung, anh Tr vẫn không sửa đổi bản thân, không chăm lo cho gia đình, tiếp tục tham gia vướng vào tệ nạn cơ bạc dẫn tới thêm nợ nần. Từ tháng 7/2017 cho đến nay, vợ chồng không còn sống chung với nhau, không còn yêu thương, quan tâm chăm sóc nhau. Nay bản thân chị không còn tình cảm với anh Tr nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Minh Tr.

Về con và cấp dưỡng nuôi con: Chị và anh Trần Minh Tr có một con chung là Trần Trương Khánh L, sinh ngày 27/7/2017. Từ khi sinh cháu cho đến nay, chị là người trực tiếp nuôi dưỡng. Nay ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đến bị đơn nhưng bị đơn không đến Tòa án để làm việc và cũng không gửi, giao tài liệu, chứng cứ trình bày ý kiến của mình; nguyên đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải. Vì vậy, Tòa án không thể hòa giải vụ án theo quy định tại Điều 54 của Luật hôn nhân và gia đình và quy định của pháp luật Tố tụng dân sự.

Tòa án lập Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân của các đương sự tại địa phương và thông báo kết quả thu thập được tài liệu, chứng cứ gửi đến các đương sự. Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải: Nguyên đơn không có ý kiến về các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp, cũng như các tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã thu thập được và không bổ sung tài liệu, chứng cứ nào khác; bị đơn vắng mặt, Tòa án đã Thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tống đạt theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến như sau:

- Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng trình tự tố tụng theo quy định đối với một phiên tòa sơ thẩm.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 39, 147 Bộ luật Tố tụng dân sựNghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Chấp nhận cho chị Trương Thị Th được ly hôn với anh Trần Minh Tr; giao cháu Trần Trương Khánh L, sinh ngày 27/7/2017 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng; tạm thời, anh Tr không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị Th không yêu cầu cấp dưỡng; về tài sản chung, nợ chung: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, trường hợp có tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác; về án phí: Nguyên đơn phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1] Anh Tr có nơi cư trú tại Ấp 1, xã TL, huyện TP, tỉnh ĐN. Vì vậy, căn cứ theo điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

[1.2] Chị Th yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Tr và được trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên. Vì vậy, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.3] Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự quyết định xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhận thấy:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Th và anh Tr tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Tà Lài cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 88, ngày 31 tháng 12 năm 2015. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ, khi chị Th yêu cầu ly hôn thì Tòa án căn cứ Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết.

Trên cơ sở lời khai của đương sự và tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình tiến hành tố tụng thể hiện: Giữa anh Tr và chị Th xảy ra mâu thuẫn do anh Tr không chăm lo, thiếu trách nhiệm với gia đình, vợ con. Từ giữa năm 2017, vợ chồng không còn sống chung với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc yêu thương nhau. Chị Th khởi kiện, anh Tr đã biết được việc Tòa án thụ lý vụ án, được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án tham gia tố tụng, cho thấy anh Tr không mong muốn Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, tiếp tục chung sống với nhau và cũng không đưa ra ý kiến gì phản đối việc chị Th yêu cầu ly hôn với mình.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Các đương sự đã vi phạm nghiêm trọng về nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ giữa vợ và chồng; vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình, làm hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không được liên tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự có 01 (một) con chung là Trần Trương Khánh L, sinh ngày 27/7/2017. Nguyên đơn yêu cầu được trực tiếp nuôi con; bị đơn không gửi yêu cầu và cũng không phản đối yêu cầu của nguyên đơn. Mặt khác, trong thời gian vợ chồng không còn sống chung, con do chị Th trực tiếp nuôi dưỡng; bản thân cháu còn nhỏ nên cần sự chăm sóc tỉ mỉ, chu đáo từ người mẹ và để tránh xáo trộn đối với cuộc sống của cháu. Vì vậy, giao con cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định của pháp luật. Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn phải cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không giải quyết, khi nào có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[2.3] Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết và Tòa án cũng không ghi nhận được ý kiến, yêu cầu của bị đơn về việc giải quyết tài sản chung khi nào có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

[2.4] Về nợ chung: Nguyên đơn kê khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án cũng không ghi nhận được ý kiến, yêu cầu của bị đơn về việc giải quyết nợ chung nên khi nào có tranh chấp sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật.

[4] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, Căn cứ:

QUYẾT ĐỊNH

 - Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144, 147; khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 235, 238, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 39 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trương Thị Th.

1.1. Về hôn nhân: Chị Trương Thị Th được ly hôn với anh Trần Minh Tr.

1.2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Giao cháu Trần Trương Khánh L, sinh ngày 27/7/2017 cho chị Th trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Chị Th không yêu cầu anh Tr cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Các đương sự có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được gây cản trở. Vì lợi ích của con chung các đương sự có quyền xin thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

1.3. Về tài sản chung, nợ chung: Tách ra để giải quyết bằng vụ án khác khi các đương sự có tranh chấp. 2. Về án phí: Chị Trương Thị Th phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình về ly hôn. Số tiền tạm ứng án phí chị Th đã nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 005666 ngày 09/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, được trừ vào án phí. Chị Th đã nộp đủ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Th và anh Tr có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2020/HNGĐ-ST ngày 29/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:25/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về