Bản án 25/2019/HSST ngày 22/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B - TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 25/2019/HSST NGÀY 22/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 22/2019/HSST ngày 03 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2019/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/2019/QĐST-HPT, ngày 09 tháng 5 năm 2019, đối với các bị cáo:

1) Lâm Thị T, sinh năm: 1969, tại tỉnh Long An. Nơi cư trú: ấp R, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Cao Đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông vô danh và bà Lâm Thị D (đã chết); chồng: Hứa văn T, con: có 01 người; tiền sự: không có; tiền án: không có; nhân thân: chưa có án tích, chưa từng bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02-01- 2019 đến ngày 08-01-2019 áp dụng biện pháp ngăn chặn khác chờ xử lý. Bị cáo tại ngoại. Bị cáo có mặt.

2) Huỳnh Ngọc L, sinh năm: 1965, tại huyện B, tỉnh Tây Ninh. Nơi cư trú: Khu phố 4, thị trấn B, huyện B, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Mua bán phế liệu; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Cao Đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Huỳnh Văn K (đã chết) và bà: Văn Thị N (đã chết); chồng: Phạm Văn D (đã chết), con: có 03 người; tiền sự: không có; tiền án: Ngày 23-3-1998, bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt 12 năm tù về tội: “Buôn lậu hàng hóa qua biên giới”; nhân thân: có án tích, chưa từng bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02-01-2019 đến ngày 08-01-2019 áp dụng biện pháp ngăn chặn khác chờ xử lý. Bị cáo tại ngoại. Bị cáo có mặt.

- Bị hại:

1). Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm: 1971; địa chỉ: Khu phố 1, thị trấn B, huyện B, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

2). Ông Lê Nhựt L, sinh năm: 1970; địa chỉ: Khu phố 1, thị trấn B, huyện B, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1) Bà Trần Thị Kim N, sinh năm: 1990; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện T, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

2) Bà Dương Thị Thu C, sinh năm: 1972; địa chỉ: ấp B, xã B, huyện T, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 02-01-2019, tại “Cơ sở may Q” thuộc Khu phố 1, thị trấn B, huyện B, tỉnh Tây Ninh, Lậm Thị T lén lút lấy 31 bộ quần áo may thành phẩm mới, chưa qua sử dụng giao cho Huỳnh Ngọc L mang đi bán thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh bắt quả tang, tạm giữ người và tang vật để xử lý.

Quá trình điều tra, T và L khai nhận: Do làm nhân viên tạp vụ tại cơ sở may Q nên T biết thời gian nghỉ trưa tại cơ sở may không có người trông giữ, có thể lén lút lấy trộm quần áo may thành phẩm chưa qua sử dụng. Đến tháng 11 năm 2018, T bàn bạc với L là người mua phế liệu, lấy trộm quần áo tại cơ sở may Q bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, L đồng ý. L và T bàn bạc phân công, T lấy trộm quần áo cất giấu vào bịch nylon màu đen giả làm đồ phế liệu. Sau đó, gọi điện thoại cho L đến lấy đem bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Ngoài lần bị bắt quả tang, từ tháng 11-2018 đến ngày 02-01-2019, T còn thừa nhận đã lấy trộm 09 lần, tổng cộng 129 bộ quần áo may thành phẩm các loại, chưa qua sử dụng giao cho L đi bán, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào đầu tháng 11-2018, T lén lút lấy trộm 20 bộ quần áo đưa cho L đi bán. Sau khi nhận được quần áo, L đem bán cho bà Dương Thị ThuC với giá 1.000.000 đồng, L chia cho T 600.000 đồng, giữ lại 400.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết. Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Lần thứ hai đến lần thứ năm: không rõ ngày, trong khoảng từ sau lần thứ nhất đến trước ngày 24-12-2018, T lén lút lấy trộm 04 lần trong 04 ngày, mỗi lần lấy trộm từ 10 đến 15 bộ quần áo, tổng cộng 55 bộ đưa cho L đi bán. Sau khi nhận được quần áo L đem bán cho bà Dương Thị Thu C với giá 2.750.000 đồng, L chia cho T 1.650.000 đồng, giữ lại 1.100.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết. Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Lần thứ sáu: ngày 24-12-2018, T lén lút lấy trộm 24 bộ quần áo đưa cho L đi bán. Sau khi nhận được quần áo, L đem bán cho bà Dương Thị Thu C với giá 1.200.000 đồng, L chia cho T 720.000 đồng, giữ lại 480.000 đồng tiêu xài cá nhân hết. Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Lần thứ bảy đến lần thứ chín: Vào các ngày 28, 29, 30 tháng 12 năm 2018, T lén lút lấy trộm 03 lần, tổng cộng 30 bộ quần áo đưa cho L đi bán. Sau khi nhận được quần áo, L đem bán cho bà Dương Thị Thu C để bán thì bà C không đồng ý mua, nên L đem về nhà cất giấu. Cơ quan điều tra đã thu hồi được.

Bà Dương Thị Thu C khai nhận: Từ tháng 11 năm 2018 đến ngày 24-12-2018, bà L nói với bà C có mua được quần áo may thành phẩm chưa qua sử dụng với giá rẻ, nên bán lại cho bà C với giá 50.000 đồng/bộ, bà C đồng ý mua. Sau khi mua quần áo của bà L, bà C mang đi bán lại cho bà Trần Thị Kim N với giá 60.000 đồng/01 bộ. Bà C đã mua quần áo của L tổng cộng 06 lần, 99 bộ với tổng số tiền: 4.950.000 đồng.

Bà Trần Thị Kim N khai nhận: Từ tháng 11 năm 2018 đến ngày 24-12- 2018, bà C đến gặp N nói có mua được quần áo may thành phẩm chưa qua sử dụng với giá rẻ và bán lại cho bà N với giá 60.000 đồng/bộ, bà N đồng ý mua.

Sau khi mua quần áo của bà C, bà N mang đi bán dạo cho nhiều người không rõ lai lịch với giá 70.000 đồng/bộ. Tổng cộng bà N đã mua lại từ bà C 06 lần, 99 bộ với giá tiền: 5.940.000 đồng, bà N đã bán được 75 bộ. Còn 24 bộ Cơ quan điều tra đã thu hồi.

Kết luận định giá tài sản số: 01/KL-HĐĐG ngày 07-01-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, tỉnh Tây Ninh kết luận: 31 bộ quần áo thành phẩm mới, chưa qua sử dụng, trong đó có 26 bộ quần lửng + áo tay ngắn (từ size 1 đến size 5), 05 bộ quần dài + áo tay ngắn (từ size 2 đến size 6) vào thời điểm ngày 02-01-2019 có giá trị 3.510.000 đồng.

Kết luận định giá tài sản số: 06/KL-HĐĐG ngày 30-01-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, tỉnh Tây Ninh kết luận: 30 bộ quần áo thành phẩm mới, chưa qua sử dụng gồm: 13 bộ quần dài + áo ngắn tay (size 3) và 17 bộ quần lửng + áo tay ngắn (size 3) có tổng giá trị 3.560.000 đồng.

Kết luận định giá tài sản số: 07/KL-HĐĐG ngày 30-01-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, tỉnh Tây Ninh kết luận: 24 bộ quần áo thành phẩm mới, chưa qua sử dụng gồm: 14 bộ quần dài + áo ngắn tay (09 bộ size 4 và 05 bộ size 05) và 10 bộ quần lửng + áo tay ngắn (08 bộ size 4 và 02 bộ size 05) vào thời điểm ngày 24-12-2018, có giá trị là: 2.920.000 đồng. Công văn số: 02/HĐĐGTTHS ngày 14-3-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, tỉnh Tây Ninh kết luận: 75 bộ quần áo thành phẩm, mới, chưa qua sử dụng, không thu hồi được, không có căn cứ xác định loại và size, nên không đủ cơ sở để định giá tài sản.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: 85 bộ quần áo may thành phẩm mới, chưa qua sử dụng đã trả lại cho chủ sở hữu.

Về bồi thường thiệt hại: Bà Nguyễn Thị Q đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Lâm Thị T và Huỳnh Ngọc L không có tài sản, nên Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh không kê biên tài sản.

Đối với 05 vụ trộm từ lần thứ nhất đến lần thứ năm, do không thu hồi được tài sản, nên không định giá được, do đó không có cơ sở xử lý các lần trộm này đối với T và L. Ngoài ra, T và L có nghề nghiệp, không dùng tiền trộm cắp làm nguồn sống chính nên không xử lý về tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

Đối với hành vi của Dương Thị Thu C và Trần Thị Kim N mua quần áo nhưng không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có, nên không xử lý.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo, vật chứng bị thu giữ, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho bị hại, như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Bản cáo trạng số: 25/CT-VKS ngày 03 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố Lâm Thị T và Huỳnh Ngọc L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo Điểm a khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo: Lâm Thị T và Huỳnh Ngọc L phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Đề nghị xử phạt Lâm Thị T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là tiền, do bị cáo không có tài sản.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Đề nghị xử phạt Huỳnh Ngọc L từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là tiền, do bị cáo không có tài sản.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Về vật chứng: Đề nghị xử lý theo pháp luật.

+ Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản.

Bị hại - Ông Lê Nhựt L trình bày: Ông không khiếu nại gì về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra, điều tra viên. Ông không xác định được tài sản của mình bị thiệt hại và đồng ý với kết luận điều tra của Công an huyện B. Tại phiên tòa, ông đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T. Về bồi thường thiệt hại: Ông và bà Q đã nhận lại tài sản và không yêu cầu các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan bồi thường thiệt hại gì thêm.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo T thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt mức án thấp nhất do Viện kiểm sát đề nghị. Bị cáo L đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về chứng cứ do bị hại cung cấp tại phiên tòa là hình ảnh được sao chép từ Camera vào các ngày 28, 29, 30 tháng 12 năm 2018 đã được công bố chứng cứ là phù hợp với kết quả điều tra vụ án. Các bị cáo, bị hại không khiếu nại gì về việc thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố.

[2] Về hành vi của các bị cáo thể hiện:

Vào khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 02-01-2019, tại cở sở may Q thuộc khu phố 1, thị trấn B, huyện B, tỉnh Tây Ninh. Bị cáo Lâm Thị T lén lút trộm cắp 31 bộ quần, áo may sẵn, chưa qua sử dụng của bà Nguyễn Thị Q giao cho bị cáo Huỳnh Ngọc L đem bán lấy tiền tiêu xài thì bị bắt quả tang.

Ngoài lần bị bắt quả tang, các bị cáo còn khai nhận hành vi phạm tội như sau: Từ tháng 11-2018 đến ngày 02-01-2019, bị cáo T còn thừa nhận đã lấy trộm 09 lần, tổng cộng 129 bộ quần áo may thành phẩm các loại, chưa qua sử dụng giao cho bị cáo L đi bán, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào đầu tháng 11-2018, bị cáo T lén lút lấy trộm 20 bộ quần áo đưa cho bị cáo L đi bán. Sau khi nhận được quần áo, bị cáo L đem bán cho bà Dương Thị Thu C với giá 1.000.000 đồng, bị cáo L chia cho bị cáo T 600.000 đồng, giữ lại 400.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết.

Lần thứ hai đến lần thứ năm: không rõ ngày, trong khoảng từ sau lần thứ nhất đến trước ngày 24-12-2018, bị cáo T lén lút lấy trộm 04 lần trong 04 ngày, mỗi lần lấy trộm từ 10 đến 15 bộ quần áo, tổng cộng 55 bộ đưa cho bị cáo L đi bán. Sau khi nhận được quần áo bị cáo L đem bán cho bà Dương Thị Thu C với giá 2.750.000 đồng, bị cáo L chia cho bị cáo T 1.650.000 đồng, bị cáo L giữ lại 1.100.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết.

Lần thứ sáu: ngày 24-12-2018, bị cáo T lén lút lấy trộm 24 bộ quần áo đưa cho bị cáo L đi bán. Sau khi nhận được quần áo, bị cáo L đem bán cho bàDương Thị Thu C với giá 1.200.000 đồng, bị cáo L chia cho bị cáo T 720.000 đồng, bị cáo L giữ lại 480.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.

Lần thứ bảy đến lần thứ chín: Vào các ngày 28, 29, 30 tháng 12 năm 2018, bị cáo T lén lút lấy trộm 03 lần, tổng cộng 30 bộ quần áo đưa cho L đi bán. Sau khi nhận được quần áo, bị cáo L đem bán cho bà Dương Thị Thu C để bán thì bà C không đồng ý mua, nên bị cáo L đem về nhà cất giấu và bị Cơ quan điều tra Công an huyện B thu hồi, xử lý vật chứng.

Căn cứ lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã được công bố tại phiên tòa, bà Dương Thị Thu C và bà Trần Thị Kim N khai nhận như sau:

Bà Dương Thị Thu C khai nhận: Từ tháng 11 năm 2018 đến ngày 24-12-2018, bị cáo L nói với bà C có mua được quần áo may thành phẩm chưa qua sử dụng với giá rẻ, nên bán lại cho bà C với giá 50.000 đồng/bộ, bà C đồng ý mua. Sau khi mua quần áo của bị cáo L, bà C mang đi bán lại cho bà Trần Thị Kim N với giá 60.000 đồng/01 bộ. Bà C đã mua quần áo của L tổng cộng 06 lần, 99 bộ với tổng số tiền: 4.950.000 đồng.

Bà Trần Thị Kim N khai nhận: Từ tháng 11 năm 2018 đến ngày 24-12-2018, bà C đến gặp N nói có mua được quần áo may thành phẩm chưa qua sử dụng với giá rẻ và bán lại cho bà N với giá 60.000 đồng/bộ, bà N đồng ý mua.

Sau khi mua quần áo của bà C, bà N mang đi bán dạo cho nhiều người không rõ lai lịch với giá 70.000 đồng/bộ. Tổng cộng bà N đã mua lại từ bà C 06 lần, 99 bộ với giá tiền: 5.940.000 đồng, bà N đã bán được 75 bộ. Còn 24 bộ bị Cơ quan điều tra Công an huyện B thu hồi, xử lý vật chứng.

[3] Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự:

[3.1] Kết luận định giá tài sản số: 01/KL-HĐĐG ngày 07-01-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, tỉnh Tây Ninh kết luận: 31 bộ quần áo thành phẩm mới, chưa qua sử dụng, trong đó có 26 bộ quần lửng

+ áo tay ngắn (từ size 1 đến size 5), 05 bộ quần dài + áo tay ngắn (từ size 2 đến size 6) vào thời điểm ngày 02-01-2019 có giá trị 3.510.000 đồng.

[3.2] Kết luận định giá tài sản số: 06/KL-HĐĐG ngày 30-01-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, tỉnh Tây Ninh kết luận: 30 bộ quần áo thành phẩm mới, chưa qua sử dụng gồm: 13 bộ quần dài + áo ngắn tay (size 3) và 17 bộ quần lửng + áo tay ngắn (size 3) có tổng giá trị 3.560.000 đồng.

[3.3] Kết luận định giá tài sản số: 07/KL-HĐĐG ngày 30-01-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, tỉnh Tây Ninh kết luận: 24 bộ quần áo thành phẩm mới, chưa qua sử dụng gồm: 14 bộ quần dài + áo ngắn tay (09 bộ size 4 và 05 bộ size 05) và 10 bộ quần lửng + áo tay ngắn (08 bộ size 4 và 02 bộ size 05) vào thời điểm ngày 24-12-2018, có giá trị là: 2.920.000 đồng.

Công văn số: 02/HĐĐGTTHS ngày 14-3-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, tỉnh Tây Ninh kết luận: 75 bộ quần áo thành phẩm, mới, chưa qua sử dụng, không thu hồi được, không có căn cứ xác định loại và size, nên không đủ cơ sở để định giá tài sản.

Như vậy, hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo T và bị cáo L có căn cứ xác định và bị truy tố phạm tội tổng cộng là 10 lần, với tổng số tiền tài sản đã được định giá, trị giá tài sản trộm cắp là: 9.580.000 đồng. Trong đó, các bị cáo khai nhận phạm tội từ lần thứ nhất đến lần thứ năm thì không thu hồi được tài sản, nên không định giá được, nhưng các bị cáo đã thừa nhận bán được tài sản thu lợi bất chính tổng cộng là 4.950.000 đồng. Trong đó, bị cáo T được chia số tiền: 2.970.000 đồng, bị cáo L được chia số tiền: 1.980.000 đồng.

Đối với bà Dương Thị Thu C bà Trần Thị Kim N không biết tài sản do các bị cáo T, L phạm tội mà có. Do đó, Cơ quan điều tra Công an huyện B không xử lý hình sự đối với bà C và bà L là đúng quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bản thân của các bị cáo có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp luật. Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, phạm tội có tổ chức nhưng thuộc trường hợp giản đơn, các bị cáo phạm tội nhiều lần, lợi dụng sơ hở của bị hại, lén lút, chiếm đoạt tài sản của người khác làm ảnh hưởng đến quyền sở hữu tài sản của công dân. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh đã truy tố các bị cáo Lâm Thị T và Huỳnh Ngọc L theo Điểm a khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm khắc mới có tính răn đe, giáo dục và phòng chống tội phạm.

Trong quyết định hình phạt có xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng đối với từng bị cáo:

[4.1] Đối với bị cáo Huỳnh Ngọc L thấy rằng:

+ Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tự thú. Những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại các điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

+ Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội từ 02 lần trở lên. Tình tiết tăng nặng này được quy định tại các điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4.2] Đối với bị cáo Lâm Thị T thấy rằng:

+ Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tự thú. Bị cáo có mẹ ruột là bà Lâm Thị Đào là người có công với cách mạng, được tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất, ngày 12-9-2005 và Huy chương kháng chiến hạng nhì, ngày 21-02-2006, bị hại đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại các điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

+ Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội từ 02 lần trở lên. Tình tiết tăng nặng này được quy định tại các điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”, do đó các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

- Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:

+ Cơ quan điều tra Công an huyện B đã trả lại cho bà Nguyễn Thị Q 85 bộ quần áo may thành phẩm mới, chưa qua sử dụng.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280, màu đen, số Imeil:353691/05/812178/0 và sim điện thoại, số thuê bao 0347882294 của bị cáo T; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280, màu đen, số Imeil: 355943/05/006099/7 và sim điện thoại, số thuê bao 0399074321 của bị cáo L; 01 xe mô tô loại cup, màu xanh, không biển số, số máy: C50E-345042, số khung: C50YJ064137 của bị cáo L là công cụ, phương tiện L quan đến tội phạm, nên tịch thu sung vào N sách nhà nước.

- Buộc bị cáo Lâm Thị T nộp lại 2.970.000 đồng tiền thu lợi bất chính; Bị cáo Huỳnh Ngọc L nộp lại 1.980.000 đồng tiền thu lợi bất chính sung vào N sách nhà nước.

- Đối với bà Dương Thị Thu C đã mua bán tài sản do các bị cáo phạm tội mà có và thu lợi bất chính số tiền: 990.000 đồng; Bà Trần Thị Kim N đã mua bán tài sản do các bị cáo phạm tội mà có và thu lợi bất chính số tiền: 750.000 đồng. Cần tuyên buộc bà C, bà N nộp lại, sung vào N sách nhà nước.

- Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận: Bà Nguyễn Thị Q, ông Lê Nhựt L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

[7] Về án phí: Các bị cáo Lâm Thị T và Huỳnh Ngọc L phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Lâm Thị T và Huỳnh Ngọc L phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

1.1. Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự; phạt bị cáo Huỳnh Ngọc L 02 (hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 02-01-2019 đến ngày 08-01-2019.

1.2. Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự; phạt bị cáo Lâm Thị T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 05 (năm) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 22 tháng 5 năm 2019.

Giao bị cáo Lâm Thị T cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

2. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

- Xử lý vật chứng: Tịch thu sung vào N sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280, màu đen, số Imeil: 353691/05/812178/0 và sim điện thoại, số thuê bao 0347882294 của bị cáo T; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280, màu đen, số Imeil: 355943/05/006099/7 và sim điện thoại, số thuê bao 0399074321 của bị cáo L; 01 xe mô tô loại cup, màu xanh, không biển số, số máy: C50E-345042, số khung: C50YJ064137 của bị cáo L.

- Buộc bị cáo Lâm Thị T nộp lại 2.970.000 (hai triệu chín trăm bảy mươi ngàn) đồng tiền thu lợi bất chính; Bị cáo Huỳnh Ngọc L nộp lại 1.980.000 (một triệu chín trăm tám mươi ngàn) đồng tiền thu lợi bất chính sung vào N sách nhà nước.

- Buộc bà Dương Thị Thu C nộp lại: 990.000 (chín trăm chín mươi ngàn) đồng tiền thu lợi bất chính; Bà Trần Thị Kim N nộp lại: 750.000 (bảy trăm năm mươi ngàn) đồng tiền thu lợi bất chính sung vào ngân sách nhà nước.

- Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận: Bà Nguyễn Thị Q, ông Lê Nhựt L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

3. Án phí: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Các bị cáo Lâm Thị T và Huỳnh Ngọc L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HSST ngày 22/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Biên - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về