Bản án 25/2019/HSST ngày 11/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 25/2019/HSST NGÀY 11/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 22/2019/HSST ngày 15 tháng 2 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/ QĐXXST-HS ngày 25/02/2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Quốc V, sinh ngày 12 tháng 10 năm 1989.

Nơi cư trú: Thôn Hợp Hoà 1, xã LV, thành phố T, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Quốc T, sinh năm 1963 và bà Đào Thị Thu H, sinh năm 1965; Vợ: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1988 (đã ly hôn); con: 01 con, sinh năm 2012.

Tiền án, tiền sự: không

Nhân thân: Bị Công an Phường Ỷ La, thành phố T, xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 37 ngày 21/6/2017, phạt tiền 750.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/11/2018 đến nay, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Tuyên Quang. Có mặt tại phiên toà.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Hữu Q, sinh năm 1989.

Địa chỉ: Thôn Hợp Hoà 1, xã Lưỡng Vượng, thành phố T, tỉnh Q. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 27/11/2018, Nguyễn Quốc V (là người nghiện ma tuý) đi xe tắc xi đến gặp 01 người đàn ông ( theo Việt khai là Nguyễn Hữu Q) đang thuê phòng trọ thuộc tổ 27, phường MX, thành phố T, tỉnh Q, hỏi mua Methamphetamine để sử dụng. Người đàn ông đồng ý bán cho Việt 01 gói Methamphetamine được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng, trên mép có viền màu xanh, với số tiền 300.000 đồng. Việt cất giấu gói Methamphetamine trong người đi bộ đến khu vực rạp tháng tám, thuộc tổ 25, phường MX, thành phố T, thì bị tổ công tác Công an thành phố T, phát hiện bắt quả tang hồi 21 giờ 40 phút cùng ngày. Việt tự giác giao nộp 01 gói Methamphetamine vừa mua được.

Tại kết luận giám định số: 21/GĐ-KTHS cùng ngày 29/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật thu giữ của Nguyễn Quốc V gửi giám định là chất ma tuý, loại Methamphetamine, số thứ tự 323 thuộc danh mục II C, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018, tổng khối lượng 0,214g (không phẩy hai mười bốn gam)

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Nguyễn Quốc V kết quả dương tính (Có chất ma tuý trong cơ thể). Việt khai nhận ngày 22/11/2018 đã sử dụng ma tuý mua ở Bến xe khách Mỹ Đình, thành phố Hà Nội.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của Nguyễn Quốc Việt, chữ ký của giám định viên và 05 hình dấu của Phòng ký thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong là Methamphetamine là vật chứng của vụ án. Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng.

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 25/CT- VKSTP ngày 15 tháng 02 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Quốc V về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc V phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm tù đến 01 (một) 03 (ba) tháng tù.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ số ma tuý, đã thu giữ. Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, dạng phím, có số IMEL258892076939998 máy cũ đã qua sử dụng. (tình trạng vật chứng như biên bản bàn giao giữa Cơ quan cảnh sát điều tra với Chi cục thi hành án dân sự).

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo chỉ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi. Qua xác minh bị cáo không có tài sản nên đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Ngoài ra, kiểm sát viên còn đề nghị HĐXX tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; Bị cáo khai nhận phiên toà khách quan trung thực, không bỏ lọt người phạm tội. Bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản khám xét; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 21 giờ 40 phút ngày 27/11/2018, tại tổ25, phường MX, thành phố T, tỉnh Q. Nguyễn Quốc V, cư trú tại thôn Hợp Hoà 1, xã LV, thành phố T, tỉnh Q đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,214g (không phẩy hai một bốn gam) Methaphetamine, mục đích để sử dụng.

 [3] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đếnphong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Tuyên Quang. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục bị cáovà phòng ngừa tội phạm chung.

 [4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

 [5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăngnặng trách nhiệm hình sự.

 [6] Về mức án mà Viện kiểm sát đề nghị, Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp, có cơ sở để chấp nhận.

 [7] Bị cáo chỉ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi. Qua xác minh các bị cáo không có tài sản nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [8] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của bị cáo. Công an thành phố Tuyên Quang đã ra quyết định xử phạt hành chính số 382 ngày 21/12/2018, phạt tiền 600.000đ nên HĐXX không xem xét.

Đối với người đàn ông, theo Việt khai là Nguyễn Hữu Q đã bán Methamphetamine cho Việt.Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Tuyên Quang đã áp dụng các biện pháp điều tra nhưng không có căn cứ chứng minh Q là người bán Methamphetamine cho Việt, nên không có căn cứ để xử lý. Do vậy HĐXX không xem xét.

 [9] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 0,194g (Không phấy một chín bốn gam) Methamphetamine là đối tượng giám định hoàn lại là tang vật của vụ án không có giá trị sử dụng nên tiêu huỷ.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, dạng phím, có số IMEL 258892076939998 máy cũ đã qua sử dụng, bị cáo khai dùng điện thoại liên lạc để mua ma tuý đề nghị HĐXX sung quỹ Nhà nước, do vậy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

 [10] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

 [11] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc V phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc V 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 27/11/2018.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật TTHS.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên ngoài mặt trước phong bì có ghi “Tang vật vụ Nguyễn Quốc V ngày 27/11/2018”. Mặt sau phong bì có chữ ký của đương sự Nguyễn Quốc V, ông Lê Hoài Vũ – Cán bộ phòng KTHS Công an tỉnh Tuyên Quang và đóng 05 (năm) hình dấu đỏ của phòng KTHS Công an tỉnh Tuyên Quang bên trong chứa 0,194g (Không phấy một chín bốn gam) Methamphetamine là đối tượng giám định hoàn lại.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, dạng phím, có số IMEL 258892076939998 máy cũ đã qua sử dụng. (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 26/02/2019).

3. Căn cứ các Điều 136, 331, 334 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

-Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

-Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HSST ngày 11/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về