Bản án 25/2019/HS-ST ngày 03/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 25/2019/HS-ST NGÀY 03/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2019/QĐXXST-HS, ngày 17/6/2019, quyết định hoãn phiên tòa số 93/2019/HSST-QĐ ngày 27/6/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lầu A T - Sinh năm: 1982 tại: Huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản P, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, Sơn La; Nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa 5/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lầu Ca D và bà Vừ Thị D (đã chết); Bị cáo có vợ và 04 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân chưa bị pháp luật xử lý lần nào; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/02/2019 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Tòng Văn Minh – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Sơn La có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 30 phút ngày 13 tháng 02 năm 2019, tổ công tác Công an xã Mường Và, huyện Sốp Cộp trong khi làm nhiệm vụ tại bản P, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La đã phát hiện và bắt quả tang Lầu A T, sinh năm 1982, trú tại bản P, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 02 gói nilon màu xanh, đỏ được cắt từ vỏ kẹo bánh bên trong có chứa nhựa dẻo màu nâu đen (nghi nhựa thuốc phiện), 01 bộ bàn đèn tự chế dùng để hút thuốc phiện. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng thu giữ và dẫn giải Lầu A T về Công an huyện Sốp Cộp để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật

Ngày 14/02/2019 tại Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng thu giữ trên. Kết quả cân tịnh: Cân tách bì toàn bộ nhựa thực vật mầu nâu đen ở gói nilon thứ nhất được khối lượng 1,169gam trích hết để giám định ký hiệu T. Cân tách bì toàn bộ nhựa thực vật mầu nâu đen ở gói nilon thứ hai được khối lượng 0,503gam trích hết để giám định ký hiệu T1. Tổng khối lượng 1,672gam nghi là nhựa thuốc phiện

Kết luận giám định số: 457 ngày 16/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu giám định ký hiệu T và T1 đều là ma túy; loại Thuốc phiện; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,672 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1,672 gam; Loại thuốc phiện”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lầu A T khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 08/02/2019 Lầu A T gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết tại nhà văn hóa bản P, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, T đã hỏi và mua được của người đàn ông đó 02 gói nhựa thuốc phiện với giá 100.000đ, sau khi mua được ma túy T mang về cất giấu ở nhà để sử dụng dần. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 13/02/2019 tổ công tác Công an xã Mường Và đến nhà yêu cầu thử ma túy, T đã thừa nhận có sử dụng ma túy và tự nguyện giao bộ bàn đèn tự chế cho tổ công tác, quá trình kiểm tra bộ bàn đèn tổ công tác phát hiện 02 gói nhựa thuốc phiện mà T đã cất giấu trong đó. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Cáo trạng số 21/CT-VKS, ngày 27 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp để xét xử bị cáo Lầu A T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo: Lầu A T từ 14 đến 18 tháng tù, xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật. Đồng thời đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo cho rằng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, khi cơ quan Công an đến nhà bị cáo yêu cầu giao nộp bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện bị cáo đã tự giác mang giao nộp 02 gói nhựa thuốc phiện, do đó đề nghị HĐXX áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự xử phạt bị cáo 12 tháng tù.

Kiểm sát viên cho rằng quan điểm của người bào chữa cho rằng bị cáo tự giao nộp 02 gói ma túy cho tổ công tác là không có cơ sở vì theo biên bản phạm tội qua tang tổ công tác khám xét bộ bàn đèn thì thu giữ được 02 gói ma túy nên không chấp nhận quan điểm của người bào chữa đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS.

Người bào chữa cho rằng ở đây bị cáo khi mang gia nộp bộ bàn đèn cơ quan điều tra chưa xác định bị cáo có ma túy hay không, bị cáo đã chấp hành yêu cầu kiểm tra của tổ công tác, khi mang giao nộp bộ bàn đèn bị cáo giao nộp cả 02 gói ma túy mà bị cáo đang tàng trữ nên vẫn đề nghị HĐXX áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 BLHS xử phat bị cáo 12 tháng tù.

Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm không áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS.

Người bào chữa vẫn giữ nguyên quan điểm bào chữa.

Bị cáo nhất trí với quan điểm bào chữa của người bào chữa, không có ý kiến gì bổ sung thêm

Bị cáo T nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với cộng đồng trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lầu A T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã trực tiếp tàng trữ 1,672 gam thuốc phiện với mục đích để sử dụng cho bản thân, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Trong vụ án này số lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không lớn; ngoài mục đích sử dụng ra bị cáo không còn mục đích nào khác do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 01 đến 05 năm tù là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ tuy không lớn, nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ được đưa vào cơ thể con người làm suy thoái giống loài, nếu để lây lan, trôi nổi trong xã hội làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng phức tạp. Do đó bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Trong phần tranh tụng người bào chữa cho rằng bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, khi cơ quan Công an đến nhà bị cáo yêu cầu giao nộp bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện bị cáo đã tự giác mang giao nộp 02 gói nhựa thuốc phiện do đó đề nghị HĐXX áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự xử phạt bị cáo 12 tháng tù là có căn cứ.

[5] Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự, ngoài lần phạm tội này bị cáo chưa bị pháp luật xử lý lần nào khác. Theo báo cáo của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú bị cáo là đối tượng nghiện hút ma túy không có việc làm ổn định.

[6] Đối với người đã trực tiếp bán ma túy cho bị cáo HĐXX xét thấy hành vi mua bán đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý hình sự, nhưng quá trình điều tra không xác định được đối tượng nên không có căn cứ để xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

[7] Vật chứng thu giữ của vụ án: Đối với 1,672 gam thuốc phiện quá trình giam định đã sử dụng hết; 01 phong bì thư niêm phong ban đầu cùng 02 mảnh giấy nilon màu xanh, đỏ được cho vào 01 phong bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La niêm phong dán kín lại và 01 (một) bộ bàn đèn tự chế không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy lẽ ra ngoài hình phạt tù, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; nhưng xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, tài sản không có gì nên không áp dụng hình pháp bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015

1. Tuyên bố bị cáo: Lầu A T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo: Lầu A T 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 13/02/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu để tiêu huỷ 01 phong bì thư niêm phong ban đầu và 02 mảnh giấy nilon màu xanh, đỏ, 01 bộ bàn đèn tự chế. Vật chứng nêu trên được mô tả theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 28/5/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sốp Cộp và Công an huyện Sốp Cộp.

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo Lầu A T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)

Báo cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 03/7/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HS-ST ngày 03/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về