Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 24/05/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA – TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 25/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 24 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 08/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị A – sinh năm 1996 (có mặt)

Nơi ĐKHKTT: Thôn V, xã T1, huyện Ư, thành phố Hà Nội

2. Bị đơn: Anh Tưởng Duy T – sinh năm 1991(vắng mặt)

Nơi ĐKHKTT: Thôn V, xã T1, huyện Ư, thành phố Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn ly hôn, biên bản tự khai, biên bản hòa giải chị Nguyễn Thị A là nguyên đơn trình bày:

Chị và anh Tưởng Duy T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T1 năm 2014. Sau khi kết hôn, thì anh T xuống Quảng Ninh làm cơ khí còn chị ra nội thành Hà Nội làm may. Được một thời gian thì chị phát hiện anh T ngoại tình, đồng thời trong cuộc sống anh T không hề hỗ trợ chị về mặt kinh tế, tiền lương của anh anh đều đưa cho mẹ anh giữ. Chị đã khuyên bảo, động viên, phân tích cho anh để anh có trách nhiệm với gia đình, với vợ con và từ bỏ ngoại tình nhưng anh không thay đổi. Kể khi con ốm con đau anh cũng không hề đưa cho chị một đồng tiền nào; chị hỏi mẹ anh thì bà lại bảo chơi họ, chơi phường hết rồi còn đâu mà đưa. Chị đã cố gắng nhẫn nhịn tự chắt chịu tiền lương nuôi con một mình. Xong đến năm 2017 chị phát hiện anh T vẫn còn ngoại tình nên chị nhận thấy mình bị xúc phạm quá lớn nên hai vợ chồng chính thức sống ly thân từ đó cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, anh T cũng không hề thay đổi, cũng không hề quan tâm chăm lo về tinh thần, về kinh tế cho vợ con. Đồng thời mỗi khi vợ chồng xô xát, nói nhau thì anh T đều chửi và định đánh, dọa giết chết mẹ con chị. Chị nhận thấy cuộc sống hôn nhân không đạt được mục đích nên chị có đơn ly hôn đến Tòa. Kể từ khi có đơn ly hôn thì anh T đưa cho chị khoảng 4.000.000đ/tháng để hỗ trợ nuôi con. Mặc dù anh T lúc nào cũng nói đoàn tụ nhưng Tòa đã hòa giải xong chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt, vợ chồng đã sống ly thân một năm nay nên chị cương quyết xin ly hôn anh T. Về con chung, chị và anh T có 01 con chung là Tưởng Thị Linh Chi – sinh ngày 26/9/2015 hiện cháu đang ở với chị. Từ khi sinh cháu một mình chị là người trực tiếp nuôi dưỡng. Hiện chị đang làm may với mức lương hàng tháng từ 7 triệu đến 12 triệu một tháng. Hai mẹ con chị ở luôn tại nhà chủ cửa hàng may tại Cổ Nhuế, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Đồng thời cháu là con gái, hiện còn nhỏ; cháu đang ở ổn định môi trường sinh sống và học tập nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được nuôi cháu Chi, chị không yêu cầu đề nghị anh T cấp dưỡng tiền nuôi con. Về tài sản, công nợ chung: chị không yêu cầu đề nghị Tòa giải quyết.

Tại biên bản tự khai, biên bản hòa giải anh Tưởng Duy T là bị đơn trình bày:

Anh và chị Anh kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T1 năm 2014. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống mỗi người một nơi; anh làm cơ khí ở Quảng Ninh còn chị Anh làm may ở nội thành Hà Nội. Nhìn chung cuộc sống của hai vợ chồng bình thường. Đến năm 2017 thì hai vợ chồng xảy ra xô xát, mâu thuẫn trầm trọng nguyên nhân là do lỗi tại anh. Anh thừa nhận sau khi kết hôn tiền lương của anh anh đều đưa cho mẹ anh giữ hộ mà không đưa cho chị Anh một đồng nào để nuôi con, đỡ đần cho vợ về kinh tế; Đồng thời trong thời gian hai vợ chồng sống xa nhau anh có tình cảm với người phụ nữ khác. Sau đó anh đã cố gắng thay đổi và hoàn thiện bản thân hơn. Đặc biệt khoảng 5, 6 tháng này anh đã chuyển về Vĩnh Phúc để làm cho gần vợ con; thỉnh thoảng anh vẫn xuống chỗ làm của chị Anh để thăm hai mẹ con và hỗ trợ cho chị Anh mỗi tháng 4 triệu đến 5 triệu để nuôi con. Anh biết trong thời gian qua anh không hỗ trợ trông nom, chăm sóc, kinh tế cho hai mẹ con chị Anh, cũng đã từng có quan hệ nam nữ với người phụ nữ khác xong anh biết mình đã sai nên chỉ mong chị Anh suy nghĩ lại để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy các con. Trường hợp chị Anh cố tình ly hôn thì anh đồng ý ly hôn với điều kiện anh được nuôi con. Về con chung, anh và chị Anh có 01 con chung như chị Anh trình bày là Tưởng Thị Linh Chi – sinh ngày 26/9/2015. Hiện cháu Chi đang ở với chị Anh. Trường hợp ly hôn, anh nguyện vọng được nuôi con. Vì anh không muốn mất vợ giờ lại mất cả con. Với cả chị Anh còn trẻ, sau này còn đi lấy chồng nên việc nuôi con là không phù hợp. Hiện tại anh làm cơ khi mức lương là 12 triệu đồng/tháng. Nhà cửa ổn đình, có mẹ anh hỗ trợ nên anh có đủ điều kiện về kinh tế và môi trường để nuôi cháu Chi. Vì vậy anh đề nghị Tòa giải quyết cho anh được quyền nuôi con và anh không yêu cầu chị Anh cấp dưỡng tiền nuôi con.Về tài sản, công nợ chung, anh không yêu cầu đề nghị Tòa giải quyết.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, anh Tưởng Duy T vắng mặt, chị Nguyễn Thị A có mặt và vẫn giữ nguyên ý kiến, không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa có quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đầy đủ các quy định về tố tụng dân sự như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự, tạo điều kiện cho họ được trình bày quan điểm, tiến hành hòa giải theo đúng quy định. Hội đồng tiến hành xét xử vụ án đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: đề nghị Tòa giải quyết xử cho chị Nguyễn Thị A được ly hôn anh Tưởng Duy T. Về con chung: giao chị Anh là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Tưởng Thị Linh Chi – sinh ngày 26/9/2015. Chị Anh phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị A đã làm đơn ly hôn theo mẫu và đã đóng dự phí ly hôn theo đúng quy định của pháp luật. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa tiến hành thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án toà án đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập anh Tưởng Duy T đến tham gia phiên toà ngày 20/5/2019 nhưng do sự vắng mặt của anh T nên Hội đồng xét xử hoãn phiên toà, tại phiên toà hôm nay mặc dù được triệu tập hợp lệ nhưng anh T vẫn vắng mặt căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử đối với vụ án.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị A và anh Tưởng Duy T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T1 ngày 22/12/2014 là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống hạnh phúc thì xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không tìm thấy tiếng nói chung nên dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã nhau; anh T có biểu hiện ngoại tình và không có trách nhiệm về kinh tế cho vợ con. Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài. Nay chị Anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh T. Bản thân anh T thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn, anh rất mong muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng nếu ly hôn thì anh phải được quyền nuôi con. Anh T không có quan điểm rõ rang, mặc dù mong muốn đoàn tụ nhưng lại không có biện pháp gì cải thiện tình cảm vợ chồng. Hơn nữa qua xác minh tại chính quyền địa phương cung cấp: cuộc sống chung giữa vợ chồng chị Anh và anh T xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do anh T đi làm nhưng không đưa tiền cho để vợ chăm lo gia đình và anh T ngoại tình. Nay chị Anh có đơn ly hôn, chính quyền địa phương có ý kiến: đề nghị Tòa căn cứ theo quy định của pháp luật cũng như nguyện vọng của các bên giải quyết cho Anh được ly hôn anh T.

Xét thấy cuộc sống giữa chị Anh và anh T mâu thuẫn từ lâu đã đến mức trầm trọng, sống ly thân, mục đích hôn nhân không đạt. Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Anh là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị A và anh Tưởng Duy T có 01 con chung là Tưởng Thị Linh Chi – sinh ngày 26/9/2015. Chị Anh và anh T đều có quan điểm xin được nuôi cháu Chi và không yêu cầu bên kia cấp dưỡng tiền nuôi con.

Xét thấy, chị Anh và anh T đều có nguyện vọng đề nghị Tòa được nuôi con chung. Bản thân chị Anh làm may có mức thu nhập từ 7.000.000đ đến 12.000.000đ/tháng; anh T làm cơ khí mức thu nhập 12.000.000đ/tháng; cả hai đều đang thuê trọ; chưa có nhà riêng. Như vậy, cả hai anh chị đều có khả năng để nuôi con. Xong cháu Chi từ nhỏ đã ở với mẹ đang ở ổn định môi trường sinh sống và học tập. Đồng thời chính quyền địa phương cho biết trước đây chị Anh phải tự mình nuôi dưỡng, chăm sóc con; anh T không hề có trách nhiệm đồng thời cháu là con gái lại còn nhỏ nên giao chị Anh là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Chi.

Vì vậy nên giao cho chị Anh là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Chi là phù hợp với khoản 3 Điều 81Luật hôn nhân và gia đình. Chị Anh không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con nên tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh T cho đến khi có thay đổi khác; anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là phù hợp Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Chị Nguyễn Thị A và anh Tưởng Duy T không yêu cầu đề nghị Toà giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Anh phải nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định pháp luật. Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 227, Điều 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sư; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chị Nguyễn Thị A được quyền ly hôn anh Tưởng Duy T.

2. Về con chung: Giao chị Nguyễn Thị A là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Tưởng Thị Linh Chi – sinh ngày 26/9/2015; Tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với anh Tưởng Duy T cho đến khi có thay đổi khác. Anh Tưởng Duy T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị A phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0008932 ngày 03 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2019/HNGĐ-ST ngày 24/05/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:25/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về