Bản án 25/2018/HS-ST ngày 16/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 25/2018/HS-ST NGÀY 16/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 05 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xét xử công khai, sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 17/2018/TLST-HS ngày 11/4/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2018/QĐXXST-HS ngày 04/5/2018 đối với bị cáo:

Vũ Đức T, sinh ngày 12/9/1991 tại xã B, huyện C, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm 10, xã B, huyện C, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Vũ Quang Vinh và bà Phạm Thị Hường; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba; có vợ là Nguyễn Thị Phượng; có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 07/3/2018, đến ngày 12/3/2018 áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; “có mặt”.

- Bị hại: Chị Lã Thị Ngọc L, sinh năm 1982; nơi cư trú: Xóm 22, xã E, huyện C, tỉnh Nam Định; “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 06/3/2018, Vũ Đức T điều khiển xe mô tô BKS: 18F1-208.30 đến cửa hàng tạp hóa của chị Lã Thị Ngọc L ở khu vực chợ Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường để mua giấy dán loa. Đến nơi, T mua giấy và thanh toán tiền cho chị L xong thì phát hiện chiếc điện thoại Samsung J7 vỏ màu hồng của chị L để trên giá bán hàng nên nảy sinh ý định trộm cắp, T hỏi chị L mua thêm sơn. Lợi dụng lúc chị L vào trong cửa hàng tìm sơn không để ý, T lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần đang mặc. Khi chị L quay ra, T bảo không mua sơn nữa rồi lên xe về.

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 04/KL-HĐĐG ngày 12/3/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuân Trường kết luận: Chiếc điện thoại Samsung J7 tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị 3.700.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 18/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố Vũ Đức T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bị cáo thừa nhận tính đúng đắn, khách quan của các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và khai nhận T bộ hành vi như đã nêu trong Cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: Tuyên bố Vũ Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù, thời gian thử thách gấp đôi; không áp dụng hình phạt bổ sung.

Bị cáo không tự bào chữa và tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Trường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc kết tội: Hành vi của bị cáo như đã khai nhận tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa như lời khai của bị hại, Kết luận định giá tài sản bị trộm cắp; từ đó, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 06/3/2018, tại cửa hàng tạp hóa của chị Lã Thị Ngọc L (địa chỉ: Chợ Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường), Vũ Đức T đã lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại Samsung J7 có giá trị là 3.700.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã hội đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, như quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường.

[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi “Trộm cắp tài sản” của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Bị cáo tuổi đời còn trẻ nhưng không chịu tu dưỡng, đã coi thường pháp luật, chiếm đoạt tài sản của người khác, nên cần phải xử lý nghiêm.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng nào, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có thái độ khai báo thành khẩn, hối lỗi về việc làm của mình. Vì vậy, bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt: Hội đồng xét xử cân nhắc thấy bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thấy cần áp dụng hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng là đủ tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo và đấu tranh chống tội phạm nói chung cũng như phù hợp với quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự: Chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung J7 do Vũ Đức T chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho chị Lã Thị Ngọc L. Chị Lã Thị Ngọc L không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự nên không cần xem xét, điều chỉnh.

[7] Về án phí: Bị cáo Vũ Đức T là người bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm i và điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

1.1. Tuyên bố Vũ Đức T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

1.2. Xử phạt Vũ Đức T 6 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án (16/5/2018);( bị cáo đã bị tạm giữ từ ngày 07/3/2018 đến ngày 12/3/2018).

1.3. Giao Vũ Đức T cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo; trong trường hợp Vũ Đức T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

2. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội kèm theo Danh mục án phí, lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Vũ Đức T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Vũ Đức T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại Lã Thị Ngọc L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2018/HS-ST ngày 16/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về