Bản án 25/2018/HS-ST ngày 10/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 25/2018/HS-ST NGÀY 10/05/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 10 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2018 và Thông báo dời ngày xét xử ngày 07 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Minh S (tên gọi khác: B), Sinh năm 1984, tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú: số 128A khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 1/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hùng M, sinh năm 1959 và bà Phạm Thị Cẩm L, sinh năm 1963; anh, chị, em ruột có 03 người (bao gồm bị cáo) lớn nhất sinh năm 1979, nhỏ nhất là bị cáo;

Tiền án: 02 lần: Ngày 21/6/2007 bị Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh (nay là thành phố Trà Vinh) xử phạt 12 tháng tù về trộm cắp tài sản. Ngày 09/12/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 20/01/2017;

Tiền sự: 04 lần: Ngày 15/9/2015 bị công an phường 6, thành phố Trà Vinh xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 05/7/2017 bị Công an phường 3, thành phố Trà Vinh xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 25/7/2017 bị Công an phường 3, thành phố Trà Vinh xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 13/11/2017 bị Công an phường 2, thành phố Trà Vinh xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 04/02/2018, sau đó chuyển tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

- Bị hại : Trung tâm Điều hành Thông tin - Viễn Thông T

Điạ chỉ trụ sở: số 568 M, khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

Do ông Nguyễn Trường N,Tổ trưởng tổ Kỹ thuật - Trung tâm Điều hành Thông tin - Viễn Thông T là người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Duy T, Giám đốcTrung tâm Điều hành Thông tin - Viễn Thông T, theo văn bản ủy quyền ngày 05/02/2018.(có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú:số 76 ấp S, xã N, H.Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :

Ông Nguyễn Minh T (tên gọi khác: Cu T), sinh năm 1979.(có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: số 128A khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

- Người làm chứng :

1. Ông Trương Văn Đ, sinh năm 1961 (vắng mặt).

Nơi cư trú: khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

2. Ông Nguyễn Việt C, sinh năm 1978 (vắng mặt).

Nơi cư trú: số 466 M, khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 50 phút ngày 04/02/2018, trong lúc bị cáo S điều khiển xe đạp mini màu hồng tím chạy trên đường Mậu Thân, đoạn thuộc khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh thì phát hiện trong khuôn viên Trung tâm Điều hành Thông tin - Viễn thông T, địa chỉ số 568, đường M khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh do ông Nguyễn Duy T, sinh năm 1971, ngụ số 254/7 Phạm Ngũ Lão khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh làm Giám đốc có để hai khung kim loại màu xám, có dạng hình hộp chữ nhật, với kích thước 64 x 27x 30cm đã qua sử dụng không có người trông giữ. Sang liền vào lấy trộm đặt lên ba ga sau của xe, rồi dùng dây có sẳn ở gần đó cột giữ chặt trên ba ga sau đó điều khiển chạy ra đường M được một đoạn thì bị anh Nguyễn Việt C, sinh năm 1978, ngụ số 466, đường M, khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh là nhân viên của Trung tâm phát hiện tri hô. Cùng lúc này, ông Trương Văn Đ, sinh năm 1961, ngụ khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh và anh Lâm Trường N chiến sĩ Công an thành phố Trà Vinh đang điều khiển xe mô tô lưu thông trên đường nghe tiếng tri hô, liền tham gia đuổi bắt được S cùng tang vật giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh xử lý.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 08/BKLĐGTS ngày 06/02/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Trà Vinh kết luận: Hai khung kim loại màu xám, có dạng hình hộp chữ nhật, với kích thước 64 x 27 x 30cm đã qua sử dụng trị giá là 40.000 đồng (Bốn chục nghìn đồng).

Về vật chứng: 02 khung kim loại màu xám, có dạng hình hộp chữ nhật với kích thước 64 x 27 x 30cm đã qua sử dụng, lúc bắt quả tang tạm giữ sau khi định giá đã xử lý giao trả lại cho bị hại xong.

Đối với xe đạp mini màu hồng tím Nguyễn Minh S sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, qua điều tra được biết chiếc xe trên Sang mượn của anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1979, ngụ số 128A, khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh để làm phương tiện đi lại, sau đó sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản anh T không biết, nên đã xử lý giao trả cho anh T xong.

Tại Bản cáo trạng số 16/CT-VKSTP-HS ngày 26/3/2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố Nguyễn Minh S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh S phạm tội “ Trộm cắp tài sản” như Bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và nhân thân của bị cáo. Vị đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h,s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh S từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Đồng thời buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Minh S đã khai nhận: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, để có tiền tiêu xài và hút chích. Vào khoảng 19 giờ 50 phút ngày 04/02/2018 bị cáo phát hiện trong khuôn viên Trung tâm Điều hành Thông tin - Viễn thông T, tại số 568, đường M, khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh có hai khung kim loại màu xám, có dạng hình hộp chử nhật, với kích thước 64 x 27 x 30cm đã qua sử dụng trị giá 40.000 đồng. Bị cáo liền đến lấy đặt lên baga sau của xe đạp chạy đi được một đoạn thì bị phát hiện bắt giữ cùng tang vật. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Minh S đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Xét thấy Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Nguyễn Minh S về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.

Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, nhưng bị cáo có nhân thân rất xấu. Đã hai lần bị Tòa án xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, khi chấp hành xong hình phạt tù ra ngoài xã hội bị cáo không chịu cố gắng lao động để tạo lập cho bản thân một nghề nghiệp chân chính. Ngược lại, do đua đòi lối sống vật chất, hút chích, bị cáo lại tiếp tục phạm tội, thể hiện bị cáo rất xem thường pháp luật, khướt từ sự giáo dục, giúp đỡ của nhà nước, tạo ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo là cần thiết.

Tuy nhiên, tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn, đã thu hồi trả lại bị hại còn nguyên vẹn, nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại điểm h khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại do ông Nguyễn Trường N làm đại diện đã nhận lại tài sản bị mất, đồng thời có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, cũng như không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự. Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Minh T đã nhận lại chiếc xe đạp Mini màu hồng tím, đồng thời có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, cũng như không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự. Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Về vật chứng: 02 khung kim loại màu xám có dạng hình hộp chữ nhật với kích thước 64 x 27 x 30cm và 01 chiếc xe đạp Mini màu hồng tím. Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh đã thu hồi trả cho bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan xong.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẻ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 173, điểm h khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh S 01 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/02/2018.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại do ông Nguyễn Trường N làm đại diện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Minh T không có yêu cầu. Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Áp dụng: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Minh S nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm xử công khai; báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2018/HS-ST ngày 10/05/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:25/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về