Bản án 25/2017/HNGĐ-ST ngày 15/09/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 25/2017/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Vào ngày 15/9/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 166/2017/TLST-DS ngày 16 tháng 6 năm 2017, về việc “Tranh chấp xin ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2017/QĐXXST-DS, ngày 16 tháng 8 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1983.

Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện P, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hồng N, sinh năm 1981. Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt lần thứ 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 17/5/2017; bản tự khai ngày 20/6/2017 và tại phiên toà chị Nguyễn Thị Kim L trình bày: Vào năm 2003, chị và anh N kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện T theo quy định. Sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống rất hạnh phúc và có sinh được 1 đứa con chung tên Nguyễn Thị Thanh X, sinh ngày 24/12/2004. Đến năm 2014 thì vợ chồng chị thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh, chị luôn bất đồng nhau trong cuộc sống và đã ly thân từ năm 2014 cho đến nay. Từ khi chị và anh N ly thân với nhau con chung do chị nuôi dưỡng.

Hiện nay anh N đã sống chung với người khác như vợ chồng, nay chị thấy tình cảm giữa chị và anh N không còn nữa nên chị yêu cầu được ly hôn cùng với anh N.

- Về con chung: Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Thị Thanh X, sinh ngày 24/12/2004, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

- Về tài sản chung: không có, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ Chung: Không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án có tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh N theo quy định nhưng anh N không có mặt theo thông báo của Tòa án.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của mình đối với vụ án trên như sau:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử tại phiên tòa hôm nay thẩm phán, HĐXX, thư ký và nguyên đơn đều chấp hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn không có mặt để tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, tuy nhiên Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục đối với bị đơn nên Viện kiểm sát không có ý kiến, kiến nghị gì về phần tố tụng.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L đối với anh N và giao con chung cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về hôn nhân:  Hôn nhân giữa  chị Nguyễn  Thị Kim L  với anh Nguyễn Hồng N là hoàn toàn tự nguyện và thực tế đã xảy ra, anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định, nhưng trong quá trình chung sống, vợ chồng anh, chị thường xuyên phát sinh mâu thuẫn và đã ly thân từ năm 2014 cho đến nay, nguyên nhân là do anh, chị luôn bất đồng ý kiến trong cuộc sống, mặc dù đã được cha, mẹ hai bên hàn gắn cho anh, chị chung sống lại với nhau nhiều lần, nhưng cả hai không thể cải thiện được những bất đồng giữa hai bên dẫn đến anh, chị ly thân với nhau, từ khi ly thân cho đến nay, cả hai không gặp nhau để thương lượng, tìm ra phương cách hàn gắn lại với nhau. Sau khi thụ lý vụ án, Toà án tiến hành hoà giải cho hai bên hàn gắn lại với nhau nhưng anh N không có mặt. Xét thấy, đời sống chung của anh, chị không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Kim L đối với anh Nguyễn Hồng N là hoàn toàn phù hợp và đúng theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về con chung: Trong thời gian chung sống chị L và anh N có sinh được đứa con chung tên Nguyễn Thị Thanh X, sinh ngày 24/12/2004, hiện do chị L đang nuôi dưỡng. Tại phiên toà, chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy: từ khi chị L và anh N ly thân cho đến nay, con chung do chị L nuôi dưỡng, trong quá trình nuôi dưỡng, chị L vẫn đảm bảo cho cháu X có cuộc sống ổn định, phát triển tốt. Mặc khác, tại bản khai ngày 17/7/2017, cháu Nguyễn Thị Thanh X có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với chị L, nghĩ nên tiếp tục giao cháu X cho chị L nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81- Luật hôn nhân và gia đình.

Tại phiên tòa hôm nay, chị L không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Anh N được quyền đến thăm nom và chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên toà hôm nay chị L trình bày anh, chị không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa, anh  vắng mặt, xét thấy anh N đã được triệu tập hợp lệ đúng theo quy định, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh N là phù hợp và đúng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56; 81 và 82 Luật hôn nhân và gia đình, Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án tuyên xử:

1/ Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Kim L với anh Nguyễn Hồng N, theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 08/2005, quyển số 01 ngày 21/01/2005, tại UBND xã P, huyện T.

2/ Về con chung:

Tiếp tục giao con chung của chị L và anh N tên Nguyễn Thị Thanh X, sinh ngày 24/12/2004, cho chị Nguyễn Thị Kim L tiếp tục nuôi dưỡng, anh Nguyễn Hồng N không cấp dưỡng nuôi con, do chị L không yêu cầu.

Anh Nguyễn Hồng N được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản.

3/ Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kim L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị Lê đã nộp là 300.000 đồng, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 09201 ngày 16/6/2017, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Nông.

Báo cho nguyên đơn biết, có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án hôm nay. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 25/2017/HNGĐ-ST ngày 15/09/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:25/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về