Bản án 251/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 251/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2019 về “ Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53 /2019/QĐXX-ST ngày 01 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị N, sinh năm 1985.

Nơi cư trú: Thôn S Th, xã X L, huyện T G, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Anh Cao Văn T, sinh năm 1986.

Nơi cư trú: xóm 21, xã Ng V, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An. Các đương sự đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện đề ngày 07 tháng 10 năm 2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Lê Thị N trình bày: Chị và anh Cao Văn T tự nguyện kết hôn với nhau và được đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã X L, huyện Tỉ G, tỉnh Thanh Hóa tại số 04/2006 ngày 06 tháng 02 năm 2006. Sau khi kết hôn thì cả hai đều chung sống hạnh phúc được khoảng 6 năm thì bắt đầu có nhiều mâu thuẩn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, thời gian gần đây cuộc sống giữa hai vợ chồng bất hòa nên đối xử thiếu tôn trọng lần nhau nên chi đã bỏ nhà đi từ năm 2013 và sống ly thân từ đó cho đến nay không thể tiếp tục chung sống với gia đình anh T được. Hiện tại chị không còn tình cảm gì với anh T nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T có 02 con chung là Cao Lê Công Đ, sinh ngày 14 tháng 9 năm 2006 và Cao Lê Nhật A, sinh ngày 13 tháng 02 năm 2013. Ly hôn chị có nguyện vọng được tiếp tục nuôi cháu A, giao cháu Đ cho anh T vì từ khi ly thân cho đến nay cháu Đ sống cùng với anh T. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Về tài sản chung: tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: không yêu cầu toà án giải quyết.

Về án phí: Chị Lê Thị N thỏa thuận chịu toàn bộ án phí.

Anh Cao Văn T trình bày: Về thời gian kết hôn và thủ tục kết hôn đúng như chị N đã trình bày. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với nhau hạnh phúc được thời gian ngắn thì bắt đấu phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân mâu thuẩn là do thiếu tôn trọng lẫn nhau, không ai quan tâm đến ai, chị N bỏ nhà đi, anh và gia đình đã nhiều lần đến gặp bố mẹ đẻ của chị N để bàn bạc, hòa giải để chị N quay về nhưng không có kết quả, nên cuối năm 2013 chị N đã cắt đứt tình cảm với anh và con không về chung sống cùng với bố con anh nữa. Nay anh xác định tuy tình cảm vợ chồng không còn đã ly thân từ lâu (năm 2013) nhưng vì các con còn nhỏ anh T mong muốn chị N quay về đoàn tụ với anh để tiếp tục nuôi con trưởng thành nên anh không muốn ly hôn. Nhưng nếu chị N cương quyết yêu cầu ly hôn thì anh cũng đồng ý.

Về con chung: có vợ chồng có 02 con chung là Cao Lê Công Đ, sinh ngày 14 tháng 9 năm 2006 và Cao Lê Nhật A, sinh ngày 13 tháng 02 năm 2013. Ly hôn anh có nguyện vọng được tiếp tục nuôi cháu Đ, vì từ khi chị Năm bỏ đi thì anh và bố mẹ anh chăm sóc cháu Đ rất tốt. Giao cháu A cho chị N vì từ khi ly thân cho đến nay cháu A sống cùng với chị N. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau Về tài sản chung: tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: không yêu cầu toà án giải quyết.

Về án phí: anh thống nhất như ý kiến của chị N.

Tòa án đã xác minh, tiến hành lấy lời khai của người làm chứng ông Cao Đức D (là bố đẻ của anh T) về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị Lê Thị N và anh Cao Văn T. Kết quả phản ánh: Vợ chồng chị N và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân do gặp khó khăn trong làm ăn nên chị N bỏ đi từ cuối năm 2013 cho đến nay, cắt đứt tình cảm với gia đình, không còn quan tâm đến anh T và các con. Còn anh T và cháu Đ đang sống cùng ông bà và anh T tại xã Ng V, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An từ khi chị N bỏ đi cho đến nay.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghị Lộc phát biểu ý kiến như sau: Đây là tranh chấp hôn nhân gia đình được quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền quy định tại Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán thực hiện đúng các quy định tại Điều 48 của Bộ luật tố tụng dân sự, lập hồ sơ đầy đủ, đúng pháp luật. Nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật.

Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm, đảm bảo nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Thành phần những người tiến hành tố tụng đúng theo Quyết định xét xử của Tòa án huyện Nghi Lộc.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Đối với đương sự: từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm này các đương sự đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Về tình cảm: Chị Lê Thị N và anh Cao Văn T mâu thuẫn đã trầm trọng. Qua xác minh tình trạng hôn nhân của vợ chồng tại địa phương cũng như lời khai của người làm chứng, nhận thấy đời sống chung của chị N và anh T không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng đã có nhiều rạn nứt. Chị N hiện không còn tình cảm với anh T, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 của Luật hôn nhân gia đình 2014 cần giải quyết cho ly hôn.

- Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung là cháu Cao Lê Nhật A, sinh ngày 13 tháng 02 năm 2013 cho chị Lê Thị N trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc; Giao cháu Cao Lê Công Đ, sinh ngày 14 tháng 9 năm 2006 cho anh Cao Văn T trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

- Về tài sản chung, nợ chung: chị Lê Thị N và anh Cao Văn T không yêu cầu toà án giải quyết nên đề nghị Hội đồng không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Toà án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An nhận định:

1 Về tố tụng: Chị Lê Thị N có đơn yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn với anh Cao Văn T. Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Toà án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An giải quyết là đúng thẩm quyền.

Chị Lê Thị N và anh Cao Văn T đề nghị không tiến hành hòa giải và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, Toà án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An không tiến hành hoà giải được và Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị N và anh T tại phiên toà là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 207 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

2 Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Lê Thị N và anh Cao Văn T là hôn nhân hợp pháp, không vi phạm các quy định về điều kiện kết hôn tại Điều 8, Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng và Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Ng V, huyện Ng L, tỉnh Nghệ An về tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh T thì có cơ sở khẳng định: Chị N và anh T hiện không còn thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, đã sống ly thân, bỏ mặc nhau từ cuối năm 2013 đến nay. Vì vậy, chị N không thể tiếp tục chung sống với anh T nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T. Như vậy, hôn nhân giữa chị N và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài. Do đó, có căn cứ cho chị N và anh T ly hôn theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị Lê Thị N và anh Cao Văn T có 02 con chung là Cao Lê Công Đ, sinh ngày 14 tháng 9 năm 2006 và Cao Lê Nhật A, sinh ngày 13 tháng 02 năm 2013. Chị N và anh T thống nhất: Giao con chung là cháu Cao Lê Nhật A, sinh ngày 13 tháng 02 năm 2013cho chị Lê Thị N trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc; Giao cháu Cao Lê Công Đ, sinh ngày 14 tháng 9 năm 2006 cho anh Cao Văn T trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Xét, sự thỏa thuận của chị N và anh T là hoàn toàn tự nguyện và không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội cần được ghi nhận.

Chị Lê Thị N và anh Cao Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu N và anh T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị N và anh T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của chị N và anh T được quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về tài sản chung, nợ chung: chị Lê Thị N và anh Cao Văn T không yêu cầu toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: chị Lê Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1, 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị N và anh Cao Văn T.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Cao Lê Nhật A, sinh ngày 13 tháng 02 năm 2013 cho chị Lê Thị N trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc; Giao cháu Cao Lê Công Đ, sinh ngày 14 tháng 9 năm 2006 cho anh Cao Văn T trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Chị Lê Thị N và anh Cao Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu N và anh T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị N và anh T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của chị N và anh T được quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: chị Lê Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và nhưng được trừ số tiền 300.000 đã nộp theo Biên lai số 0005772 ngày 08 tháng 10 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Chị N đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 251/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:251/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về