TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 250/2019/HS-ST NGÀY 11/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 292/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2785/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Thành T (Tức: T Thi); Sinh năm 1988 tại Thành phố Cần Thơ; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký thường trú: Khu vực QT1, phường TK, quận T, Thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 3/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Văn Nh (chết) và bà Nguyễn Thị Đ; Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ con; Tiền án: Bản án số: 514/2014/HSST ngày 31/12/2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 24/02/2019; Có mặt.
Bị hại: Ông Choi Ka W; Sinh năm 1989; Quốc tịch: Trung Quốc.
Tạm trú: 55/29-31-33 LG, phường NB, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lúc 02 giờ 45 phút ngày 24/02/2019, Nguyễn Thành T (giả nữ) điều khiển xe mô tô biển số 52Z9-6481 đến trước nhà số 8 Trần Hưng Đạo, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 thì phát hiện ông Choi Ka W (Quốc tịch Trung Quốc) đi bộ cùng bạn là ông Cheong Su K (Quốc tịch Trung Quốc) nên này sinh ý định trộm cắp tài sản. T dừng xe trên lề đường, đi bộ lại tiếp cận ông Choi Ka W và ông Cheong Su K rồi rủ đi massage, nhưng hai ông không đồng ý. T dùng tay trái sờ vào bộ phận sinh dục của ông Choi Ka W, còn tay phải móc múi quần của ông Choi Ka W lấy 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7Plus màu trắng rồi lên xe bỏ chạy nhưng bị ông Trần Đức Minh và ông Nguyễn Anh Dũng là Cảnh sát hình sự Công an Quận 1 tuần tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật của vụ án.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thành T thừa nhận: Bị cáo dùng tay phải móc túi quần bị hại lấy chiếc điện thoại di động hiệu iphone thì bị bắt quả tang.
Bị hại Choi Ka W vắng mặt tại phiên toà nhưng căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện bị hại đã nhận lại tài sản và không có khiếu nại gì.
Tại bản cáo trạng số 208/CT-VKS-P2 ngày 24/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thành T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, luận tội và tranh luận: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Thành T về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điểm s Khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử áp dụng mức án nhẹ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Bị cáo Nguyễn Thành T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của bị hại Choi Ka W 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7Plus, màu trắng. Theo kết luận định giá tài sản số 1501/KL- HĐĐGTS-TTHS ngày 14/3/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Mịnh kết luận: “01 điện thoại di động hiệu Iphone 7Plus, màu trắng, dung lượng 128GB, đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 24/02/2019 có giá trị 8.740.000 đồng (Tám triệu bảy trăm bốn mươi ngàn đồng)”. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không những xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây hoang mang trong quần chúng nhân dân và ảnh hưởng tiêu cực đến suy nghĩ, tình cảm của du khách quốc tế đối với con người Việt Nam. Bị cáo có đủ khả năng tạo cho bản 2 thân công ăn việc làm lương thiện nhưng do lười lao động, thích sống hưởng thụ nên đã cố tình thực hiện tội phạm bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài nhằm mục đích giáo dục, cải tạo các bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.
[4] Về tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho bị hại. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm h, s Khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[6] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại Khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có thu nhập. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về bồi thường thiệt hại: Ông Choi Ka W đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[8] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 chiếc xe mô tô biển số 52Z9-6481 do bà Trần Thị Ngọc Ph đứng tên chủ sở hữu. Quá trình điều tra xác định bà Ph đã bán chiếc xe trên năm 2015, về phía bị cáo khai nhận mua lại của một người không rõ nhân thân, lai lịch. Xét hiện chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nghĩ cần thông báo tìm chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe trên trong thời gian nhất định, nếu quá thời hạn trên vẫn không có người đến nhận thì tịch thu sung công chiếc xe trên.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.
[10] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận tòa bộ quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 1 Điều 173; Điểm h Khoản 1 Điều 52; Điểm h, s Khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo: Nguyễn Thành T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Thời hạn từ tính từ ngày 24/02/2019. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Căn cứ khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Giao cơ quan thi hành án Dân sự có thẩm quyền tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu hợp pháp của 01 (một) xe hai bánh gắn máy màu đỏ; Nhãn hiệu: Honda; Loại xe:
02 bánh; Số loại: Click; Biển số: 52Z9-6481; SK: RLHJF18037Y-303069 (ghi theo số cà); SM: JF18E-0003103; trong thời hạn 04 tháng nếu không có người đến nhận thì tịch thu xe sung công quỹ nhà nước.
(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 294/19 ngày 03/6/2019 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).
Căn cứ Khoản 2 Điều 135 và Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm;
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 250/2019/HS-ST ngày 11/07/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 250/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về