TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 249/2020/HS-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 16 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 139/2020/HSST ngày 16/3/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3233/2020/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Việt A (tên gọi khác: Cường cò), sinh năm 1983 tại Thành phố Hải Phòng; nơi thường trú: phường B, quận C, Thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và bà Phạm Thị E; chưa có vợ, con; tiền sự: không.
Tiền án: Ngày 07/12/1999 cùng đồng bọn cướp tài sản. Tại bản án số 42/HSST ngày 09/3/2000 bị Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, Thành phố Hải Phòng tuyên phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng về tội “Cướp tài sản của công dân” theo khoản 1 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985. Thời hạn tù tính từ ngày 27/12/1999, lần phạm tội này bị cáo phạm tội khi mới 16 tuổi 09 tháng 25 ngày.
Nhân thân:
- Ngày 09/9/2002 cùng đọn bọn gây rối trật tự công cộng. Ngày 06/6/2002 Công an quận Ngô Quyền, Thành phố Hải phòng ra lệnh truy nã.
- Tháng 3/2003 vào Thành phố Hồ Chí Minh và có hành vi “Giết người” nên bị Công an Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định truy nã. Từ cuối tháng 3/2003 trốn sang Vương Quốc Anh và phạm tội “Giết người, bắt cóc, giam giữ người trái pháp luật, bắt bí làm tiền, gây thương tích với dụng ý”. Ngày 16/11/2007, Tòa án Đại hình Trung ương Vương Quốc Anh xử phạt tù chung thân về tội “Giết người, bắt cóc, giam giữ người trái pháp luật, bắt bí làm tiền, gây thương tích với dụng ý” và thi hành án tại Anh. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (29/01/2007).
- Tháng 8/2018, Vương Quốc Anh bàn giao Nguyễn Việt A về Việt Nam. Tại Bản án số 100/HSST ngày 09/11/2018 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù giam về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Tổng hợp hình phạt chung của 03 bản án là tù chung thân, chấp hành án tại trại giam Tân Lập, Bộ Công an.
Từ tháng 6/2019 đến nay, trích xuất từ trại giam Tân Lập đến trại giam Chí Hòa để tạm giam điều tra. Bị tạm giam tại Trại tạm giam Chí Hòa từ ngày 27/6/2019. (có mặt).
Người bào chữa: Luật sư Phan Thị Thanh Hậu thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Việt A. (có mặt).
Bị hại: Bạch Nhị Thanh G, sinh năm 1972, đã chết ngày 23/7/2003.
Đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị Cẩm H, sinh năm: 1962; là chị cùng mẹ khác cha. (có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phan Tấn K, sinh năm: 1978. (vắng mặt).
Người làm chứng:
1. Ông Trần Nguyễn Duy L, sinh năm: 1985 (có mặt).
2. Bà Hà Nguyễn Thanh M, sinh năm: 1982; (vắng mặt).
3. Ông Nguyễn Đăng O, sinh năm: 1984; (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 18/7/2003, tại hẻm 385 Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Đăng O, Nguyễn Đăng S (anh em ruột) cãi nhau với Liêm Trần Huy R, về việc O và Huy thua Hoàng tiền cá cược đá banh 3.000 đồng nhưng không trả cho Hoàng. Đến khoảng 17 giờ 30 phút ngày 23/7/2003, Hoàng đến nhà O và Huy tại số 385B2 Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, để đòi 3.000 đồng, Huy lấy tiền trả cho Hoàng và hai bên lại xảy ra cãi nhau rồi Hoàng bỏ về. Một lúc sau, Hoàng cùng Liêm Trần Duy Hiếu (anh ruột của Hoàng) đến nhà O gây sự đòi đánh Huy, mẹ ruột của Huy là bà Lê Thị Hồng Phúc đứng ra xin lỗi nên Hoàng và Hiếu đi về.
Do tức giận việc Hoàng và Hiếu đến nhà mình gây sự nên O đã gọi điện thoại cho Lê Quang Minh (anh họ của O) kể lại sự việc bị Hoàng, Hiếu hăm dọa đánh và nhờ Minh giúp đỡ. Lúc này, Minh đang ở Hải Phòng do bận việc nên không vào Thành phố Hồ Chí Minh được nên Minh giới thiệu và cho số điện thoại của Nguyễn Việt A (bạn của Minh đang ở Thành phố Hồ Chí Minh) để O liên lạc, đồng thời Minh nói O: “Anh sẽ nhờ A đến giúp”. Ngay sau đó, O liền gọi điện thoại cho A nhưng A không nghe máy nên O báo lại cho Minh biết. Sau khi Minh gọi điện thoại cho A và giới thiệu O là em họ của Minh cần giúp đỡ thì O gọi điện thoại cho A nhờ A qua gặp Hoàng để giàn xếp, giảng hòa thì A đồng ý, O cung cấp địa chỉ nhà của O để A đến.
Khoảng 19 giờ cùng ngày, Nguyễn Việt A cùng Trung và một người bạn của Trung (chưa rõ lai lịch) đi chung một xe gắn máy hiệu Future (xe của bạn của Trung) đến nhà O. Lúc gặp O, A hỏi “ở đâu, dẫn anh qua nhà nó đi” thì O đi bộ cùng với A để dẫn đường, còn Trung và bạn của Trung chạy xe theo phía sau đến tiệm internet số 156 Nguyễn Văn Cừ, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1 (cách nhà O khoảng 200 mét) để tìm Hoàng và Hiếu. Khi đến nơi, O nhìn thấy Hiếu đang đứng trông xe tại tiệm internet nên đến hỏi Hiếu: “Thằng Hoàng đâu?”, Hiếu trả lời: “Nó không có ở đây, mày tìm nó làm gì?”, O nói: “Đã xin lỗi rồi mà sao còn dọa chém thằng Huy”. Lúc này, Trần Nguyễn Duy L (chủ nhà cho thuê mặt bằng mở tiệm internet) từ trong tiệm internet đi ra nói với Hoàng: “Bộ mày đánh nó chắc?” thì O dùng tay đánh vào mặt L. Thấy vậy, Bạch Nhị Thanh G (là cậu ruột của L) đang ở trong tiệm đi ra nói O: “Sao mày đánh nó?” rồi cầm một cây tầm vông dài khoảng 01 mét giơ lên định đánh O nhưng O đỡ được và bỏ chạy. A đứng gần đó liền chụp cây tầm vông và đẩy G vào trong tiệm rồi rút con dao thủ sẵn trong người đâm, chém nhiều nhát vào người anh G. Anh Phan Tấn K (người thuê mặt bằng mở tiệm internet) từ trong tiệm đi ra thì Trung lấy một dao đem theo sẵn trong người ra cầm trên tay đâm, chém K và anh Hiếu. Sau khi gây án, A và Trung chạy ra ngoài rồi lên xe Future do bạn của Trung ngồi chờ sẵn bỏ chạy, còn O chạy bộ về nhà. Bạch Nhị Thanh G, Phan Tấn K và Hiếu được Trần Nguyễn Duy L và Hà Nguyễn Thanh M (vợ K) đưa đến Bệnh viện Nguyễn Trãi cấp cứu, nhưng G đã tử vong.
* Tại Bản giám định pháp y số 984/GĐPY ngày 28/7/2003 của Tổ chức giám định Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định pháp y tử thi Bạch Nhị Thanh G, (sinh năm 1972; cư trú: 201 Nguyễn Văn Cừ, Phường 2, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh) như sau: Vùng thắt lưng phải ngay trên cánh chậu có vết thủng rách da nằm ngang, bờ mép sắc gọn, dạng hình bầu dục, góc trong là nhọn, góc ngoài dạng chữ V, có cạnh trên dài 7,8cm, cạnh dưới dài 8,5cm. Vết thương hở rộng 3cm, thông vào trong ổ bụng theo chiều hướng ngang từ phải sang trái, từ sau ra trước, làm đứt sắc gọn cơ thắt lưng, động mạch và tĩnh mạch chậu bên phải, đứt nông sắc gọn đốt sống thắt lưng số 5 và rách ruột non. Mỏm khuỷu tay phải có tổn thương cắt rách da và cơ, kích thước 3,8x3cm. Đùi trái có tổn thương đâm xuyên sắc gọn từ sau ra trước, từ dưới lên trên, làm đứt sắc gọn các cơ đùi. Kết luận: Bạch Nhị Thanh G chết do choáng mất máu cấp bởi vết thương đâm tại vùng thắt lưng phải làm đứt động - tĩnh mạch chậu bên phải và vết thương đâm xuyên đùi trái.
* Tại bản kết luận giám định pháp y bổ sung số 1306-19/KLGĐ-PY ngày 27/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận về cơ chế hình thành vết thương trên người Bạch Nhị Thanh G như sau: Vùng thắt lưng phải ngay trên cánh chậu có vết thủng rách da nằm ngang, bờ mép sắc gọn, dạng hình bầu dục, có góc trong là nhọn, góc ngoài dạng chữ V, có cạnh trên dài 7,8cm, cạnh dưới dài 8,5cm. Vết thương hở rộng 3cm, thông vào trong ổ bụng theo chiều hướng ngang từ phải sang trái, làm đứt thắt gọn cơ thắt lưng, động mạch và tĩnh mạch chậu bên phải, đứt nông sắc gọn đốt sống thắt lưng số 5 và rách ruột non. Đây là vết thương gây ra cái chết của nạn nhân, do vật sắc nhọn gây ra theo cơ chế đâm. Mỏm khuỷu tay phải có tổn thương cắt rách da và cơ, kích thước 3,8cm x 3cm. Vết thương gây mất máu ít. Đây là vết thương không gây ra cái chết của nạn nhân, do vật có cạnh sắc gây ra theo cơ chế cắt. Đùi trái có tổn thương đâm xuyên sắc gọn từ sau ra trước, từ dưới lên trên, làm đứt sắc gọn các cơ đùi. Vết thương gây mất máu cấp độ vừa. Đây là vết thương không gây ra cái chết của nạn nhân, do vật sắc nhọn gây ra theo cơ chế đâm. Con dao dài khoảng 30cm, cán gỗ, lưỡi dao dài khoảng 20cm, mũi bằng, bản lưỡi rộng khoảng 5cm. Đây là hung khí có cạnh sắc, chỉ có thể gây ra vết thương tại mỏm khuỷu tay phải. Không thể gây ra các vết thương tại thắt lưng phải và đùi trái.
* Tại Bản giám định pháp y số 1210/TT.03 ngày 12/9/2003 của Tổ chức giám định pháp y Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định pháp y về thương tích của anh Phan Tấn K (sinh năm 1978; cư trú: 105 Kinh Dương Vương, phường An Lạc, quận Bình Tân, TP.Hồ Chí Minh) như sau: Vết thương thấu bụng, thủng 4 lỗ ruột non, đã mổ khâu lỗ thủng, sẹo đậm 04cm ở bụng. Tỷ lệ thương tật toàn bộ: 48% (vĩnh viễn).
* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích (giám định bổ sung) số 1210.B/TT.03-19 ngày 06/9/2019 của Trung tâm Pháp y-Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận về cơ chế hình thành vết thương của anh Phan Tấn K như sau: Tổn thương cơ thể do vết thương thấu bụng gây thủng ruột non là 46%. Thương tích do vật sắc nhọn gây ra, rất nguy hiểm đến tính mạng đương sự. Con dao dài khoảng 30cm, cán gỗ, lưỡi dao dài khoảng 20cm, mũi bằng, bản lưỡi rộng khoảng 5 cm không phù hợp gây ra thương tích này. Tổn thương tại sau khuỷu tay trái có tỉ lệ 03% mà Trung tâm Pháp y ghi sót trong bản kết luận. Thương tích do vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra, không nguy hiểm đến tính mạng đương sự. Con dao dài khoảng 30cm, cán gỗ, lưỡi dao dài khoảng 20cm, mũi bằng, bản lưỡi rộng khoảng 5cm gây ra được thương tích này. Cộng lùi hai tỉ lệ 46% và 03% sẽ ra 46,62%, làm tròn số sẽ ra 48%.
* Tại Bản giám định pháp y số 1409/TT.03 ngày 12/9/2003 của Tổ chức giám định pháp y Thành phố Hồ Chí Minh kết luận giám định pháp y về thương tích của anh Liêm Trần Duy Hiếu (sinh năm 1982; cư trú: 152 Nguyễn Văn Cừ, phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1, TP.Hồ Chí Minh) như sau: Vết thương phần mềm vai trái tạo sẹo 04x04cm ổn định. Vết thương cẳng tay trái: Gây hở xương quai trái, đứt gân dưới ngón I, II, III, sẹo cẳng tay trái đã điều trị ổn định. Tỷ lệ thương tật toàn bộ: 12% (vĩnh viễn).
* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích (giám định bổ sung) số 1409.B/TT.03-19 ngày 06/9/2019 của Trung tâm Pháp y-Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận về cơ chế hình thành vết thương của anh Liêm Trần Duy Hiếu như sau: Vết thương tại vai trái do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra. Vết thương tại cẳng tay trái do vật sắc, vật sắc nhọn gây ra. Các thương tích không nguy hiểm đến tính mạng đương sự. Con dao dài khoảng 30cm, cán gỗ, lưỡi dao dài khoảng 20cm, mũi bằng bản lưỡi rộng khoảng 5cm gây ra được các thương tích này.
Ngày 24/11/2004, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xử phạt Nguyễn Đăng O 02 năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; xử phạt Lê Quang Minh một năm tù về tội “Không tố giác tội phạm” (Bản án số 2000/HSST). Riêng A bỏ trốn nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định truy nã.
Ngày 22/8/2017, đại diện Vương quốc Anh tiến hành bàn giao phạm nhân Nguyễn Việt A cho Bộ Công an Việt Nam và Tòa án Thành phố Hải Phòng để ra quyết định thi hành án theo bản án của Vương quốc Anh về tội “Giết người, bắt cóc, giam giữ người trái pháp luật, bắt bí làm tiền, gây thương tích với dụng ý” xử bị cáo tù chung thân; đồng thời bàn giao Công an Thành phố Hải Phòng tiến hành các thủ tục tố tụng đối với A bị truy nã về tội “Gây rối trật tự công cộng” do Công an quận Ngô Quyền, Thành phố Hải Phòng ra quyết định truy nã số 41 ngày 06/8/2002 và giao cho Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp Công an quận Ngô Quyền, Thành phố Hải Phòng tiến hành các thủ tục tố tụng cần thiết để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Việt A về tội “Giết người” theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Quá trình điều tra, A chỉ thừa nhận dùng dao chém vào nhóm Bạch Nhị Thanh G, Phan Tấn K và Liêm Trần Duy Hiếu gây thương tích, không thừa nhận đã dùng dao đâm anh G tử vong. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của Nguyễn Đăng O (người cùng đi đánh nhau với A), bị hại Phan Tấn K, Liêm Trần Duy Hiếu, các nhân chứng Trần Nguyễn Duy L và Hà Nguyễn Thanh M cùng các tài liệu chứng cứ khác có cơ sở xác định A là người đã dùng dao đâm, chém Bạch Nhị Thanh G tử vong.
Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ khi khám nghiệm hiện trường: 01 đoạn tre (tầm vông) có kích thước 93x04cm; 01 đôi dép da màu đen của nạn nhân Bạch Nhị Thanh G; 01 mẫu máu. Thu giữ của Nguyễn Đăng O: 01 điện thoại di động hiệu Nokia 6610 màu bạc, số seri: 350894/40/057792/2. Thu giữ của Lê Quang Minh: 01 điện thoại di động hiệu Nokia 2100 số IMEI: 35134460924339. Tại Bản án số 2000/HSST ngày 24/11/2004 của Tòa án nhân dân TP.Hồ Chí Minh tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước 02 điện thoại di động của Lê Quang Minh và Nguyễn Đăng O; tiêu hủy đoạn tre, đôi dép và mẫu máu.
Về dân sự: bà Nguyễn Thị Cẩm H (chị cùng mẹ khác cha với nạn nhân G) là đại diện cho bị hại yêu cầu bồi thường tiền tổn thất tinh thần là 100.000.000 đồng, bị cáo A chưa bồi thường.
Tại Bản Cáo trạng số 97/CT-VKS-P2 ngày 05/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Việt A về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 93 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Việt A thừa nhận hành vi phạm tội tương tự như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo thừa nhận việc Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh “Giết người” là đúng, không oan sai.
Đại diện hợp pháp của bị hại Bạch Nhị Thanh G là bà Nguyễn Thị Cẩm H (chị cùng mẹ khác cha của bị hại G) yêu cầu bị cáo Cường bồi thường 100.000.000 đồng chi phí mai táng và tổn thất tinh thần, về trách nhiệm hình sự thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Nguyễn Việt A thể hiện thái độ hối hận, mong muốn gia đình bị hại tha thứ cho lỗi lầm của mình, xin được khoan hồng để sớm có điều kiện trở về gia đình, làm lại cuộc đời.
Sau khi kiểm tra toàn bộ lời khai của bị cáo, cùng với các tài liệu, chứng cứ khác được đưa ra xem xét tại phiên tòa; đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Việt A về tội “Giết người”. Đề nghị hội đồng xét xử: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h (tái phạm) khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Việt A 20 năm tù. Buộc bị cáo phải chịu hình phạt tổng hợp chung của cả 04 bản án là tù chung thân.
Về trách nhiệm dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 100.000.000 đồng, về xử lý vật chứng đã được xử lý bằng bản án trước đó nên không đề cập xử lý.
Luật sư Phan Thị Thanh Hậu bào chữa cho bị cáo Nguyễn Việt A thống nhất về tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khái báo, ăn năn hối cải; bị cáo là lao động nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn; đã được đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với mức thấp hơn Viện kiểm sát đề nghị.
Bị cáo Nguyễn Việt A thống nhất với lời bào chữa của vị luật sư, không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện hợp pháp của người bị hại không có ý kiến tranh luận.
Tranh luận lại ý kiến của vị luật sư, đại diện Viện kiểm sát cho rằng: Luật sư không tranh luận về tội danh, điều khoản truy tố đối với bị cáo mà chỉ nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trong quá trình nghị án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Việt A cũng như đại diện hợp pháp của bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Việt A không có ý kiến về quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay: bị cáo Nguyễn Việt A đã khai nhận toàn bộ những hành vi phạm tội do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được xác định qua bản tự khai, tường trình, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị cáo; lời khai của người làm chứng; bản ảnh, biên bản khám nghiệm hiện trường, bản kết luận giám định pháp y… nên đã có đủ căn cứ xác định: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 23/7/2003, tại tiệm internet số 156 Nguyễn Văn Cừ, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, do bênh vực Nguyễn Đăng O bị anh Bạch Nhị Thanh G cầm 01 cây tầm vông dài khoảng 01 mét giơ lên định đánh nhưng O đỡ được và bỏ chạy. Nguyễn Việt A là người được O nhờ đến để hòa giải mẫu thuẫn giữa O với anh em Hoàng, khi thấy G cầm cây tầm vông đuổi đánh O, thì Cường đứng gần đó chụp được cây tầm vông và đẩy G vào trong tiệm, sau đó rút con dao trong người đâm dẫn đến G tử vong do choáng mất máu cấp bởi vết thương đâm tại vùng thắt lưng phải làm đứt động - tĩnh mạch chậu bên phải và vết thương đâm xuyên đùi trái. (Theo Bản giám định pháp y số 984/GĐPY ngày 28/7/2003 của Tổ chức giám định Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh).
Với các hành vi như trên, xét đã có cơ sở để tuyên bố bị cáo Nguyễn Việt A phạm vào tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 như Cáo trạng đã truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Xuất phát từ việc mâu thuẫn giữa Nguyễn Đăng O và Liêm Trần Huy Hoàng, Liêm Trần Duy Hiếu xảy ra trước đó. Nguyễn Việt A được nhờ đến để hòa giải nhưng khi thấy anh G (không liên quan gì đến mâu thuẫn của các bên) đã cầm cây tầm vông đuổi đánh O, thì Cường đứng gần đó chụp được cây tầm vông và đẩy G vào trong tiệm, rút con dao trong người đâm làm G tử vong.
Mặc dù bị hại và bị cáo không có mâu thuẫn từ trước nhưng vì muốn bênh vực bạn nên bị cáo đã dùng dao đâm vào vùng trọng yếu tước đi tính mạng của bị hại là hành vi có tính côn đồ, gây tang thương mất mát cho gia đình nạn nhân nên phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với hành vi của mình gây ra. Bản thân bị cáo có 01 tiền án 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 30 tháng về tội “Cướp tài sản của công dân” theo khoản 1 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985, phạm tội ngày 07/12/1999 khi mới 16 tuổi 09 tháng 25 ngày, nhưng chưa được xóa án tích. Ngày 09/9/2002 cùng đồng phạm gây rối trật tự công cộng, bị Công an quận Ngô Quyền, Thành phố Hải phòng ra lệnh truy nã, sau khi Vương Quốc Anh bàn giao bị cáo về Việt Nam thì Tòa án nhân dân Thành phố Hải Phòng đã đưa bị cáo ra xét xử, tại Bản án số 100/HSST ngày 09/11/2018 đã xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Lần phạm tội trong vụ án này xảy ra ngày 18/7/2003 sau lần phạm tội trước của bị cáo đã bị xét xử về tội “Cướp tài sản của công dân” nhưng chưa được xóa án tích nên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Do vậy, cần thiết phải áp dụng tội danh và hình phạt của điều luật truy tố quy định tại điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 để xử phạt bị cáo với mức án tương xứng thì mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy nguyên nhân xảy ra vụ án có một phần lỗi của phía bị hại dù không có mâu thuẫn gì với nhóm bị cáo nhưng lại cầm cây gậy tầm vông đuổi đánh người trong nhóm bị cáo trước, dẫn đến bị cáo vì muốn bênh vực bạn mà có hành vi sai trái, tước đi tính mạng của bị hại.
Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đại diện viện kiểm sát và vị luật sư bào chữa cho bị cáo đã đề cập như: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn; đã được đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Với các tình tiết trên, xét có thể áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Do đó, Hội đồng xét xử thấy, chỉ cần xử phạt bị cáo với hình phạt tù có thời hạn cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa lỗi lầm, sớm trở về gia đình, làm lại cuộc đời.
Đối với đối tượng tên Trung là người đi cùng với bị cáo trong ngày xảy ra vụ án và đã có hành vi gây thương tích cho các anh Phan Tấn K, Liêm Trần Duy Hiếu. Do chưa xác định được nhân thân lai lịch của Trung, hiện Trung cũng đã bỏ trốn, chưa truy bắt được. Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của những người bị hại, người làm chứng thì chưa đủ căn cứ xác định Nguyễn Việt A có hành vi gây thương tích cho các anh K, Hiếu nên không có căn cứ buộc A phải chịu trách nhiệm hình sự cũng như trách nhiệm dân sự với những người này. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra truy bắt Trung, khi nào bắt được Trung thì sẽ xử lý sau.
[5] Về tổng hợp hình phạt:
Sau khi phạm tội trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Việt A đã bỏ trốn sang Vương Quốc Anh từ cuối tháng 3/2003 và phạm tội “Giết người, bắt cóc, giam giữ người trái pháp luật, bắt bí làm tiền, gây thương tích với dụng ý”. Ngày 16/11/2007, Tòa Đại hình Trung ương Vương Quốc Anh xử phạt tù chung thân về tội “Giết người, bắt cóc, giam giữ người trái pháp luật, bắt bí làm tiền, gây thương tích với dụng ý” và thi hành án tại Anh. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (29/01/2007). Do hành vi phạm tội tại Vương Quốc Anh xảy ra sau hành vi phạm tội trong vụ án này nên không tính là tình tiết tăng nặng đối với bị cáo.
Do thời điểm xét xử trong vụ án này, bị cáo chưa chấp hành xong các hình phạt: 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng về tội “Cướp tài sản của công dân” (bản án số 42/HSST ngày 09/3/2000 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, Thành phố Hải Phòng), phạm tội mới trong thời gian thử thách (ngày 05/6/2002) nên bị chuyển sang hình phạt tù; 30 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo Bản án số 100/HSST ngày 09/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hải Phòng; tù chung thân về tội “Giết người, bắt cóc, giam giữ người trái pháp luật, bắt bí làm tiền, gây thương tích với dụng ý” theo bản án ngày 16/11/2007 của Tòa Đại hình Trung ương Vương Quốc Anh. Các bản án trên đều đang có hiệu lực thi hành nên căn cứ quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì bị cáo phải chấp hành hình phạt tổng hợp chung của cả 04 bản án.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại Bạch Nhị Thanh G là bà Nguyễn Thị Cẩm H (chị cùng mẹ khác cha của bị hại G) yêu cầu bị cáo Cường bồi thường 100.000.000 đồng chi phí mai táng và tổn thất tinh thần. Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015 thì bị cáo phải có nghĩa vụ bồi thường do hành vi xâm phạm tính mạng của người khác. Xét các yêu cầu của gia đình bị hại là thỏa đáng nên cần buộc bị cáo phải bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại Bạch Nhị Thanh G.
[7] Về xử lý vật chứng gồm: 01 đoạn tre (tầm vông) có kích thước 93x04cm; 01 đôi dép da màu đen của nạn nhân Bạch Nhị Thanh G; 01 mẫu máu thu giữ khi khám nghiệm hiện trường; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 6610 màu bạc, số seri: 350894/40/057792/2 thu giữ của Nguyễn Đăng O; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 2100 số IMEI: 35134460924339 thu giữ của Lê Quang Minh.
Tại Bản án số 2000/HSST ngày 24/11/2004, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước 02 điện thoại di động của Lê Quang Minh và Nguyễn Đăng O; tiêu hủy đoạn tre, đôi dép và mẫu máu. Do các vật chứng liên quan đến vụ án đã được xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; điều 38; Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Việt A 20 (hai mươi) năm tù về tội “Giết người”.
Tổng hợp với hình phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng về tội “Cướp tài sản của công dân” theo bản án số 42/HSST ngày 09/3/2000 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, Thành phố Hải Phòng; 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo Bản án số 100/2018/HS-ST ngày 09/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hải Phòng; tù chung thân về tội “Giết người, bắt cóc, giam giữ người trái pháp luật, bắt bí làm tiền, gây thương tích với dụng ý” theo bản án ngày 16/11/2007 của Tòa án Đại hình Trung ương Vương Quốc Anh. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả 04 (bốn) bản án là tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tại Vương Quốc Anh - ngày 29/01/2007.
Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 591 Bộ luật dân sự năm 2015 buộc bị cáo phải có nghĩa vụ bồi thường cho đại diện hợp pháp của người bị hại 100.000.000 (một trăm triệu) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 5.000.000 (năm triệu) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 (sau đây gọi tắt là Luật thi hành án dân sự) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bị cáo, đại diện hợp pháp cho người bị hại có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 249/2020/HS-ST ngày 16/07/2020 về tội giết người
Số hiệu: | 249/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về