Bản án 249/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 249/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 256/2020/TLST- HS ngày 21/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 260/2020/QĐXXST-HS ngày 29/10/2020 đối với các bị cáo:

1. Lê Văn Y, sinh năm 1990; Đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Cụm 7, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa:

9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn N, sinh năm 1957 và bà Trần Thị T, sinh năm 1959; Vợ là Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm 1995; Có 01 con, sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: Có 01 tiền án. Bản án số 61/2019/HSST ngày 27/03/2019, Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản trị giá 48.000.000 đồng). Ra trại ngày 02/01/2020 (BL 82).

Nhân thân: Có 02 tiền án:

- Bản án số 17/2012/HSST ngày 23/3/2012, Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng xử phạt 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Tài sản trị giá 18.000.000 đồng – BL 63), đã xóa án;

- Bản án số 149/2012/HSST ngày 26/12/2012, Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Ra trại ngày 16/12/2013 (BL 64 – 74), đã xóa án.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 05/8/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt).

2. Đàm Quang C, sinh năm 1992. Đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Cụm 10, xã T, huyện Đ, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đàm Xuân T, sinh năm 1964 và bà Trần Thị H, sinh năm 1967; Vợ là Nguyễn Thị N, sinh năm 1993; Có 01 con, sinh năm 2012.

Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Có 03 tiền án:

- Tại bản án số 689/2011/HSPT ngày 06/7/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản trị giá 69.800.000 đồng). Ra trại ngày 22/01/2014 (BL 107 – 107c, 107d), đã xóa án;

- Tại bản án số 187/2015/HSST ngày 28/9/2015, Tòa án nhân dân quận Hà Đông xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản trị giá 22.000.000 đồng – BL 107c - 112), đã xóa án;

- Tại bản án số 73/2015/HSST ngày 30/9/2015, Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tài sản trị giá 21.300.000 đồng). Ra trại ngày 28/4/2018 (BL 115 – 121), đã xóa án.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 05/8/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt).

Người bị hại: Anh Trần Văn T, sinh năm 1994; HKTT: Xóm 4, Châu Sơn, Duy Tiên, Hà Nam. Trú tại: Ngõ 34, phường P, quận N, Hà Nội. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12h30 ngày 04/8/2020, Đàm Quang C rủ Lê Văn Y đi trộm cắp xe máy, Y đồng ý. Trước khi đi, C bảo Y tìm mang theo 01 tay công để phá khóa, còn C chuẩn bị 04 đầu vam bằng kim loại và 01 con dao dạng dao mèo, dài khoảng 35cm, đầu dao nhọn, bản rộng khoảng 4cm, lưỡi dao màu trắng. C dùng băng dính màu đen bọc bên ngoài dao cất vào túi xách của mình và đưa cho Y cầm 04 đầu vam phá khóa. Sau đó, C điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Dream BKS: 29X8-7448 chở Y đi xem có ai sơ hở thì trộm cắp xe máy. Khoảng 13 giờ cùng ngày, khi cả hai đi đến trước cửa nhà số 14BT4 - 2 Khu đô thị T, tổ 17 T, N, Hà Nội thì phát hiện thấy có 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade màu xám đen, BKS: 90B2-303.59 của anh Trần Văn T (SN:1994, NKTT: xóm 4, C, D, Hà Nam) đang để trước cửa nhà, xe không khóa cổ, khóa càng, không có người trông giữ. Lúc này, C dừng xe lại và ngồi ở trên xe nổ máy cảnh giới còn Y đi bộ đến chiếc xe máy dùng tay công gắn vam đã chuẩn bị sẵn phá khóa xe máy. Sau khi lấy được xe máy, Y điều khiển xe máy trộm cắp được cùng C quay trở về phòng trọ của C tại số 48, ngõ 79, tổ 4 M, N, Hà Nội cất giấu chờ tiêu thụ. Tại phòng trọ, Y mở cốp xe Honda Airblade vừa trộm cắp được, phát hiện bên trong có một chiếc đồng hồ Apple Watch màu đen, dây đeo cao su màu đen nên Y mang vào phòng trọ của C cất. Đến khoảng 17h30 cùng ngày, C điều khiển xe máy chở Y mang theo bộ vam phá khóa tiếp tục đi trộm cắp, khi ra đến cổng nhà 48, ngõ 79, tổ 4 M, N, Hà Nội thì bị lực lượng Công an kiểm tra và đưa về trụ sở để làm việc.

Tại cơ quan điều tra Đàm Quang C và Lê Văn Y đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ gồm:

1. Thu giữ của Lê Văn Y: 01 chiếc xe máy Honda AirBlade, BKS: 90B2 - 303.59 màu xám - đen (số máy JF63E1098557, số khung: 6307F2098532); 01 chiếc đồng hồ Apple Watch Seri 4 màu đen có dây đeo bằng cao su màu đen; 01 bộ vam phá khóa (gồm: 01 tay công bằng kim loại hình chữ L kích thước 15x5cm; 02 đầu vam bằng kim loại dài khoảng 5cm, hình trụ có 06 cạnh đường kính khoảng 0,7cm, một đầu được đập dẹt 2 canh và vót nhọn; 01 đầu vam bằng kim loại dài khoảng 03 cm hình trụ có 06 cạnh đường kính 0,7cm, một đầu được đập dẹt 2 cạnh và vót nhọn; 01 đầu vam bằng kim loại dài khoảng 03 cm, hình trụ đường kính khoảng 0,8cm, một đầu được mài 06 cạnh vót nhọn - BL98);

2. Thu giữ của Đàm Quang C: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream, BKS:

29X8 – 7448 (số khung: C100M – 8189510; số máy: C100ME – 8189510); 01 túi đeo chéo màu nâu kích thước 20 x 25cm trên túi có ghi chữ Jeep – Supreme; 01 con dao bằng kim loại màu trắng, lưỡi dao sắc nhọn, kích thước khoảng 35cm, bản rộng 5cm, chuôi dao bằng gỗ, bọc giấy màu trắng (BL 138).

Ngày 04/8/2020, Cơ quan điều tra tiến hành dẫn giải Y và C xác định nơi trộm cắp chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade màu xám đen, BKS: 90B2-303.59. Y và C đã chỉ được địa điểm trộm cắp chiếc xe máy trên, tại trước cửa nhà số 14BT4-2 Khu đô thị T, tổ 17 T, N, Hà Nội.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 410 ngày 20 tháng 9 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Nam Từ Liêm, kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Airblade, màu xám- đen, BKS: 90B2-303.59, số khung: 6307FZ098532, số máy: JF63E1098557, đăng ký lần đầu ngày 10/10/2016, đã qua sử dụng. Trị giá 26.000.000 đồng; 01 chiếc đồng hồ đeo tay thông minh nhãn hiệu Apple Watch Seri 4, 44mm, màu đen, dây đeo cao su màu đen, đã qua sử dụng. Trị giá tài sản 4.000.000 đồng (BL 184, 185).

Tổng giá trị tài sản là: 30.000.000 đồng.

Đối với chiếc xe máy Honda Dream màu nâu, đeo BKS: 29X8 -7448 Đàm Quang C dùng làm phương tiện chở Y đi trộm cắp tài sản. C khai là xe của ông Đàm Xuân T (SN: 1964, là bố đẻ của C) mua lại từ phố chùa H, quận C, Hà Nội để sử dụng. Đầu năm 2020, C sử dụng chiếc xe máy trên và đã vứt bỏ BKS (không rõ địa điểm vứt bỏ) sau đó C ra chợ P, quận H, Hà Nội mua của một người không quen biết chiếc BKS: 29X8-7448 lắp vào để sử dụng (mục đích để khi đi trộm cắp không bị phát hiện), còn đăng ký của xe C đã làm mất. Tại Cơ quan điều tra, ông Đàm Xuân T khai: Cuối năm 2018 ông T mua lại chiếc xe máy Honda Dream BKS: 34F5-7707 trên chợ xe máy Chùa H, quận C, Hà Nội, khi mua xe có giấy tờ mua bán, có đăng ký xe. Sau đó, Ông T có giao chiếc xe máy trên cho C sử dụng cùng toàn bộ giấy tờ liên quan và C đã làm mất, việc C lắp BKS: 29X8 – 7448, ông T không biết (BL 153- 154).

Tại Kết luận giám định số 8136/KL- PC09- DD3 ngày 17/9/2020, của phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Xe máy nhãn hiệu Honda AirBlade, BKS: 90B2 - 303.59 màu xám - đen; số máy JF63E1098557, số khung : 6307F2098532, là số nguyên thủy, Xe máy nhãn hiệu Honda Dream, đeo BKS: 29X8 – 7448, số khung: C100M - 8189510; số máy: C100ME – 8189510, là số nguyên thủy.

Không giám định 02 biển kiểm soát: 90B2- 303.59 và BKS: 29X8 –7448 do kng có mẫu so sánh (BL 188).

Quá trình điều tra xác định:

Chiếc xe Honda Dream màu nâu, số khung C100M8189510; số máy: C100ME81889510, BKS: 34F5 - 7707, đứng tên chủ sở hữu là anh Nguyễn Đức D (SN 1976, NKTT: Khu 3, thị trấn T, huyện T, tỉnh Hải Dương). Năm 2017, anh D đã bán chiếc xe máy trên cho một người không quen biết tại thành phố H, tỉnh Hải Dương. Hiện do ông T không cung cấp được các giấy tờ đăng ký liên quan đến xe máy Honda Dream màu nâu, số khung C100M8189510; số máy: C100ME81889510 nên ngày 01/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm đã ra Quyết định tách vụ án hình sự liên quan đến tài liệu chiếc xe Honda Dream BKS: 29X8-7448 màu nâu (Số khung C100M8189510; số máy: C100ME81889510), để tiếp tục xác minh làm rõ (BL 156 và 187 - 189).

Tra cứu xác minh BKS: 29X8 – 7448, xác định là biển số của chiếc xe máy Honda SH 125 màu đen – xám – bạc (số khung 058831, số máy 0458589) của anh Bùi Vũ T (SN: 1980 – NKTT: số 101, A25 N. T, C, Hà Nội), anh T khai đã bán chiếc xe máy trên vào năm 2018 cho người không quen biết tại khu vực Chùa H, quận C, Hà Nội (BL 157- 159).

Ngày 01/10/2020, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng số 37 trao trả cho anh Trần Văn T: 01 chiếc xe máy Honda Airblade, BKS: 90B2-303.59 màu xám - đen số khung: 6307FZ098532, số máy: JF63E1098557 và 01 chiếc đồng hồ đeo tay nhãn hiệu Apple Watch Seri 4,44mm, màu đen, dây đeo cao su màu đen. Anh T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự (BL 151, 152).

Tại bản cáo trạng số 259/CT- VKS ngày 19/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm các bị cáo Lê Văn Y, Đàm Quang C bị truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Các bị cáo Lê Văn Y, Đàm Quang C khai nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận các bị cáo Lê Văn Y, Đàm Quang C đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hai, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 173; điểm h, s Khoản 1 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52 (riêng đối với bị cáo Lê Văn Y); Điều 38 của Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo Lê Văn Y mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù, bị cáo Đàm Quang C mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Tòa tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) tay công bằng kim loại hình chữ L kích thước 15x 5cm; 04 đầu vam bằng kim loại; 01 (một) túi đeo chéo màu nâu kích thước 20 x 25cm trên túi có ghi chữ Jeep – Supreme; 01 (một) con dao bằng kim loại màu trắng, lưỡi dao sắc nhọn, kích thước khoảng 35cm, bản rộng 5cm, chuôi dao bằng gỗ, bọc giấy màu trắng.

Lời nói sau cùng các bị cáo thấy ăn năn về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm và của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khong 13 giờ 00 ngày 04/8/2020, tại trước cửa nhà số 14BT4 - 2 Khu đô thị T, tổ 17 T, N, Hà Nội, các bị cáo Lê Văn Y và Đàm Quang C đã có hành vi trộm cắp chiếc xe máy Honda Airblade, BKS: 90B2-303.59 màu xám – đen (số khung: 6307FZ098532, số máy: JF63E1098557), trị giá 26.000.000 đồng và 01 chiếc đồng hồ đeo tay nhãn hiệu Apple Watch Seri 4, 44mm màu đen, dây đeo cao su màu đen, trị giá 4.000.000 đồng của anh Trần Văn T. Tổng trị giá tài sản là 30.000.000 đồng. Tài sản đã được thu hồi và trả lại cho người bị hại, anh T không có yêu cầu bồi thường về dân sự.

[3] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, nên cần phải có hình phạt nghiêm để giáo dục các bị cáo trở thành người tốt và phòng ngừa chung. Do vậy hành vi nêu trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.

[4] Xét vai trò của các bị cáo, đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

- Xét vai trò của các bị cáo: Trong vụ án này bị cáo Lê Văn Y giữ vai trò thực hành, là người trực tiếp thực hiện hành vi phá khóa xe máy để trộm cắp tài sản. Đối với bị cáo Đàm Quang C là đồng phạm giữ vai trò là người giúp sức, cảnh giới cho bị cáo Lê Văn Y thực hiện hành vi trộm cắp. Do đó, bị cáo Lê Văn Y phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn bị cáo Đàm Quang C nhằm đảm bảo tính công bằng và răn đe, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của các bị cáo.

- Khi lượng hình cũng xem xét nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo.

+ Đối với bị cáo Lê Văn Y: Bị cáo có nhân thân xấu: Bị cáo có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 tiền án về tội “Chống người thi hành công vụ” (đã được xóa án tích). Tại bản án số 61/2019/HSST ngày 27/3/2019 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

+ Đối với bị cáo Đàm Quang C: Bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo có 03 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ giáo dục và phòng ngừa chung. Vì vậy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định vì vậy Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án đã bàn giao cho Chi cục thi hành án dân sự quận N là: Đối với 01 tay công bằng kim loại hình chữ L kích thước 15x 5cm; 04 đầu vam bằng kim loại; 01 túi đeo chéo màu nâu kích thước 20 x 25cm trên túi có ghi chữ Jeep – Supreme; 01 (một) con dao bằng kim loại màu trắng, lưỡi dao sắc nhọn, kích thước khoảng 35cm, bản rộng 5cm, chuôi dao bằng gỗ, bọc giấy màu trắng liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 (riêng đối với bị cáo Lê Văn Y); Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố các bị cáo Lê Văn Y, Đàm Quang C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Văn Y 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/8/2020.

Xử phạt bị cáo Đàm Quang C 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/8/2020.

Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 tay công bằng kim loại hình chữ L kích thước 15x 5cm; 04 đầu vam bằng kim loại; 01 túi đeo chéo màu nâu kích thước 20 x 25cm trên túi có ghi chữ Jeep – Supreme; 01 (một) con dao bằng kim loại màu trắng, lưỡi dao sắc nhọn, kích thước khoảng 35cm, bản rộng 5cm, chuôi dao bằng gỗ, bọc giấy màu trắng. (Các vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự quận N đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng số 77 ngày 16/10/2020) Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 249/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:249/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về