Bản án 248/2019/DS-ST ngày 23/08/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 248/2019/DS-ST NGÀY 23/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 23 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 206/2019/TLST-DS ngày 15 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp “hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1870/2019/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1961, Địa chỉ: 122/1 ấp HB, xã G, huyện P, tỉnh Bến Tre.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị C: ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1962, địa chỉ: 122/1 ấp HB, xã G, huyện P, tỉnh Bến Tre theo Văn bản ủy quyền ngày 15/7/2019.

2. Bị đơn: Anh Võ Văn V, sinh năm 1980, Địa chỉ: 201/1 ấp HB, xã G, huyện P, tỉnh Bến Tre.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1962, Địa chỉ: 122/1 ấp HB, xã G, huyện P, tỉnh Bến Tre.

(Tất cả cùng có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng tại tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn N trình bày:

Vào ngày 09/11/2017 (âm lịch) anh Võ Văn V vay của vợ ông là bà Nguyễn Thị C số tiền 100.000.000 đồng, thời hạn 03 tháng trả tiền, việc cho vay thể hiện ở giấy mượn tiền bà C đã cung cấp cho tòa, khi cho vay hai bên thỏa thuận lãi là 100.000.000 đồng thì đóng mỗi tháng 6.000.000 đồng. Sau khi vay anh V đóng lãi được 03 tháng là 18.000.000 đồng, ngoài ra anh V còn trả lãi thêm được 20.000.000 đồng (trả mỗi lần 10.000.000 đồng) nhưng do bà C mượn giùm cho anh V nên số tiền lãi này là trả cho người khác.

Khi vay tiền anh V nói để sử dụng làm vốn mua bán gà nhưng do anh V là người đi vay tiền nên không yêu cầu vợ anh V phải có nghĩa vụ liên đới trả tiền cùng anh V.

Số tiền cho anh V vay là tiền bà C đi mượn giùm cho anh V, lúc đó ông không biết việc bà C cho anh V vay tiền nhưng nay bà C và ông định đây là tài sản chung của ông và bà C.

Tại tòa ông yêu cầu anh V trả cho bà C và ông số tiền 100.000.000 đồng, yêu cầu trả một lần, không yêu cầu tính lãi; không đồng ý với việc anh V trình bày trả được 20.000.000 đồng tiền nợ gốc nên chỉ còn nợ lại 80.000.000 đồng; nếu anh V có yêu cầu được trừ 20.000.000 đồng vào nợ gốc thì ông yêu cầu tính lãi lại từ lúc vay cho đến nay với mức lãi suất theo quy định của pháp luật.

Theo bản tự khai và trong quá trình ttụng tại tòa bị đơn Võ Văn V trình bày:

Anh thừa nhận có vay của bà C số tiền 100.000.000 đồng, vay tiền ngày nào anh không nhớ nhưng thừa nhận “giấy mượn tiền” do bà C cung cấp là do anh ký tên.

Khi vay tiền thỏa thuận lãi suất là cứ 1.000.000 đồng đóng 5.000 đồng/ngày và không thỏa thuận thời hạn trả nợ; anh trả lãi đầy đủ khoảng 06 tháng, việc trả lãi anh không có tài liệu, chứng cứ gì do lúc trả lãi thì anh mang tiền trực tiếp đến đưa cho bà C và không ghi biên nhận. Sau đó anh đã trả được cho bà C 20.000.000 đồng (mỗi lần 10.000.000 đồng) là để trừ vào tiền nợ gốc 100.000.000 đồng nên anh chỉ còn nợ bà C 80.000.000 đồng. Anh không đồng ý việc bà C trình bày bà C vay giùm cho anh vì anh không nhờ bà C vay tiền; anh cũng nhận tiền từ bà C và trả lãi cho bà C.

Do khi trả lãi anh mang tiền đến trả trực tiếp cho bà C nhưng không ghi biên nhận hay giấy tờ gì nên anh không có tài liệu, chứng cứ để cung cấp cho tòa thể hiện việc anh có trả lãi; đối với số tiền 20.000.000 đồng anh không đồng ý đây là tiền anh trả lãi mà là tiền trả nợ gốc vì lúc đó bà C cho anh được trả dần mỗi tháng 10.000.000 đồng tiền gốc, anh trả được 2 tháng, sau đó vì còn nợ nhiều người nên không có khả năng trả nữa nhưng thỏa thuận này anh cũng không có tài liệu, chứng cứ gì để giao nộp.

Anh vay tiền của bà C về để mua gà nhưng vợ anh không biết nên anh không yêu cầu vợ anh phải có nghĩa vụ trả nợ cùng anh.

Tại tòa anh chỉ thừa nhận còn nợ bà C 80.000.000 đồng vì vậy anh đồng ý trả cho bà C 80.000.000 đồng và xin được trả dần mỗi tháng 4.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. Nếu bà C không đồng ý trừ 20.000.000 đồng vào nợ gốc anh yêu cầu tính lãi lại theo quy định của pháp luật trong số tiền anh đã trả lãi cho bà C thừa nhận là 38.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng. Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: theo đơn khởi kiện nguyên đơn Nguyễn Thị C yêu cầu bị đơn Võ Văn V trả tiền nợ vay nên đây là tranh chấp “hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; bị đơn Võ Văn V có nơi cư trú tại số nhà 201/1 ấp HB, xã G, huyện P, tỉnh Bến Tre; theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú.

[3] Về nội dung: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa có căn cứ xác định giữa nguyên đơn Nguyễn Thị C và bị đơn Võ Văn V có xác lập hợp đồng vay tài sản được thể hiện ở “giấy mượn tiền” đề ngày 09/11/2017 (âm lịch), hợp đồng vay tài sản được giao kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, không ai bị lừa dối hoặc bị ép buộc; cả hai đều có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự nên được xem là hợp đồng hợp pháp theo quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự.

Bà C và anh V cùng thống nhất “giấy mượn tiền” đề ngày 09/11/2017 (âm lịch) nên đây là chứng cứ của vụ án theo quy định của khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Theo giấy mượn tiền thể hiện thời gian vay tiền là ngày 09/11/2017 (âm lịch) tức ngày 26/12/2017 (dương lịch), số tiền vay là 100.000.000 đồng; thời gian là 03 tháng và không thể hiện việc hai bên có thỏa thuận lãi suất.

Nguyên đơn bà C trình bày là 100.000.000 đồng thì mỗi tháng anh V trả lãi 6.000.000 đồng (tức lãi suất 6%/tháng). Sau khi vay anh V trả lãi được 03 tháng là 18.000.000 đồng, ngoài ra anh V còn trả lãi thêm được 20.000.000 đồng (trả mỗi lần 10.000.000 đồng) nhưng do bà C mượn giùm cho anh V nên số tiền lãi này là trả cho người khác nên bà C yêu cầu anh V trả đủ số tiền 100.000.000 đồng. Anh V trình bày anh trả lãi là cứ 1.000.000 đồng trả 5.000 đồng/ngày (tức lãi suất 15%/tháng), anh trả lãi đầy đủ khoảng 06 tháng, ngoài ra anh đã trả được 20.000.000 đồng tiền nợ gốc, chỉ còn nợ 80.000.000 đồng nên chỉ đồng ý trả cho bà C 80.000.000 đồng.

Do bà C và anh V đều thừa nhận có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất nên theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự mức lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự (20%/năm) tức là 10%/năm.

Số tiền lãi được tính là: 100.000.000 đồng x 10%/năm x 01 năm 07 tháng 28 ngày = 16.585.000 đồng.

Do anh V đã trả lãi được số tiền là 38.000.000 đồng nên được khấu trừ 21.415.000 đồng vào tiền nợ gốc. Do đó, chỉ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà C và buộc anh V trả cho bà C và ông N số tiền 78.585.000 đồng.

[4] Anh V trình bày do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên yêu cầu được trả dần mỗi tháng 4.000.000 đồng. Xét thấy, yêu cầu trả dần của anh V là không phù hợp vì anh V đã vi phạm thỏa thuận trả nợ; yêu cầu trả dần của anh V tại tòa không được bà C chấp nhận nên buộc anh V phải trả hết một lần số tiền nợ vay 78.545.000 đồng.

[5] Về án phí: do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận một phần nên phải chịu án phí phần không được tòa án chấp nhận và bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 463, 465, 466, 468, 357 Bộ luật dân sự 2015.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị C. Buộc anh Võ Văn V trả cho bà Nguyễn Thị C và ông Nguyễn Văn N số tiền 78.585.000 đồng.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, có đơn yêu cầu của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị C về việc yêu cầu anh Võ Văn V phải trả 21.415.000 đồng.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Anh Võ Văn V phải chịu 3.929.000 đồng.

Bà Nguyễn Thị C phải chịu 1.070.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú và được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí còn lại là 1.430.000 đồng theo biên lai thu số 0001792 ngày 15 tháng 5 năm 2019.

3. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 248/2019/DS-ST ngày 23/08/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:248/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về