Bản án 248/2019/DS-ST ngày 22/08/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 248/2019/DS-ST NGÀY 22/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 235/2019/TLST-DS ngày 29 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản” Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2019/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 224/2019/QĐST-DS ngày 06 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

* Ngu yên đơn : Trần Thị Đ, sinh năm 1966.

Trú tại: số 257, Ô1, khu 3, thị trấn Chợ Gạo, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang.

* Bị đ ơn : Nguyễn Lê N, sinh năm 1980.

HKTT: ấp An Khương, xã An Thạnh Thủy, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

Địa chỉ liên lạc: ấp Bình Thọ Trung, xã Bình Phan, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang (Chị Đẹp, anh Nam đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai chị Đẹp trình bày:

Ngày 29/9/2018, anh N có vay số tiền 315.000.000đồng, anh N tự tay viết biên nhận và ký tên đã nhận số tiền nêu trên, thỏa thuận lãi suất 5%/tháng (thỏa thuận bằng lời nói, không ghi trong biên nhận). Hai bên không thỏa thuận thời gian trả nợ, khi nào cần chị sẽ đòi. Tuy nhiên từ ngày vay tiền đến nay, anh N không trả cho chị bất kỳ khoản tiền vốn, lãi nào. Chị đã đòi nhiều lần nhưng anh N cứ hẹn lần hẹn lượt, không trả tiền cho chị. Đến ngày 13/02/2019, anh N có viết giấy cam kết hứa ngày 30/01/2019 âm lịch sẽ trả đủ số tiền 315.000.000đồng nhưng anh vẫn không thực hiện đúng theo cam kết. Đến ngày 11/4/2019, anh N tiếp tục viết cam kết hứa sẽ trả số tiền 315.000.000đồng theo phương thức:

Trong thời hạn 03 tuần (từ ngày 11/4/2019), anh N sẽ trả cho chị số tiền 140.000.000đồng. Số tiền còn lại 175.000.000đồng, anh N sẽ trả cho chị mỗi tháng 5.000.000đồng cho đến khi hết nợ. Tuy nhiên, anh N vẫn không thực hiện.

Nay, chị khởi kiện yêu cầu anh Nguyễn Lê N trả số tiền 315.000.000đồng, không yêu cầu tính lãi, trả một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

* Tại biên bản ghi lời khi ngày 07/6/2019, anh Ntrình bày:

Anh thừa nhận có vay chị Đ số tiền 140.000.000đồng, vay nhiều lần, chị Đẹp tính lãi 20% trên số tiền vay, do không có tiền trả lãi nên chị Đẹp đã tính cộng dồn nhiều lần lên đến số tiền 315.000.000đồng nhưng thực tế chỉ có 140.000.000đồng tiền gốc, còn lại là tiền lãi, anh vay thời điểm nào không nhớ rõ. Đối với tờ giấy nợ của số tiền 315.000.000đồng, anh mới viết gần đây khoảng hơn một tháng. Trước đây, chị Đ có thỏa thuận cho anh trả tiền gốc trước 140.000.000đồng, còn lại tiền lãi trả dần hàng tháng 5.000.000đồng cho đến khi hết nợ nhưng đến nay anh vẫn chưa trả.

Nay, anh xin trả tiền nợ gốc 140.000.000đồng xin trả hàng tháng cho đến khi hết nợ vì hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, không có khả năng trả một lần theo yêu cầu chị Đ. Đối với số tiền còn lại là tiền lãi thì anh xin không trả do trước đây anh đã trả lãi nhiều rồi, anh trả khoảng 80.000.000đồng, khi trả lãi anh không có làm giấy tờ.

* Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân thủ đúng quy định pháp luật.

Về việc giải quyết vụ kiện: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự ;Điều 357, 468 Bộ luật dân sự, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Trần Thị Đ có đơn xin vắng mặt phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và xét xử. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Đ.

Bị đơn anh Nguyễn Lê N vắng mặt không có lý do mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với anh N.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Quan hệ tranh chấp giữa chị Trần Thị Đ, anh Nguyễn Lê N là tranh chấp hợp đồng vay tài sản được xem xét giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 463 Bộ luật dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của chị Đẹp là có cơ sở, bởi lẽ giữa chị Đ, anh N có xác lập hợp đồng vay tài sản với chứng cứ là giấy mượn tiền ngày 29/9/2018 với nội dung: “ Tôi tên Nguyễn Lê N, sinh năm 1980, địa chỉ: ấp An Khương, xã An Thạnh Thủy ngày 29/9/2018, tôi có mượn chị Trần Thị Đ, sinh năm 1966, cư ngụ số 257, Ô1, khu 3, thị trấn Chợ Gạo, huyện Chợ Gạo, TG số tiền 315.000.000đồng (Ba trăm mười lăm triệu đồng)” do anh N viết và ký tên. Đồng thời ngày 13/02/2019, anh có cam kết trả cho chị Đ số tiền 315.000.000đồng vào ngày 30/01/2019 âm lịch và cam kết ngày 11/4/2019, anh N cam kết trả số tiền 315.000.000đồng với hình thức: trong thời hạn 03 tuần sẽ hoàn trả số tiền 140.000.000đồng, còn lại 175.000.000đồng hàng tháng anh gửi cho chị Đ 5.000.000đồng đến khi nào đủ số tiền 175.000.000đồng nhưng đến nay anh vẫn không thực hiện. Do anh N vi phạm thỏa thuận, vi phạm thời gian trả nợ cho chị Đ làm thiệt thòi quyền và lợi ích hợp pháp của chị.

Anh N vắng mặt xem như từ bỏ quyền chứng minh của mình đối với số tiền mà chị Đ khởi kiện. Tuy nhiên, tại biên bản ghi lời khai ngày 07/6/2019, anh cho rằng, anh có nợ chọ Đ số tiền 140.000.000đồng, vay nhiều lần, chị Đ tính lãi 20% trên số tiền vay, do không có tiền trả lãi nên chị Đ đã tính cộng dồn nhiều lần lên đến số tiền 315.000.000đồng nhưng thực tế chỉ có 140.000.000đồng tiền gốc, còn lại là tiền lãi nhưng anh thừa nhận khi trả lãi không có làm giấy tờ cũng như anh không có chứng cứ chứng minh số tiền 175.000.000đồng là tiền lãi.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định anh Nguyễn Lê N nợ chị Trần Thị Đ số tiền 315.000.000đồng đồng và anh N có nghĩa vụ trả cho chị Đ số tiền nêu trên khi án có hiệu lực pháp luật phù hợp với Điều 466 Bộ luật dân sự.

Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có cơ sở được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên anh N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39; Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều Điều 463, Điều 466, Điều 357 Bộ luật dân sự 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử :

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Đ Buộc anh Nguyễn Lê N có nghĩa vụ trả cho chị Trần Thị Đ số tiền 315.000.000đồng (Ba trăm mười lăm triệu đồng). Thời gian trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của chị Đ cho đến khi thi hành án xong, anh Nam còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

* Về án phí dân sự sơ thẩm:

+ Anh Nguyễn Lê N phải chịu số tiền 15.750.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

+ Hoàn lại cho chị Trần Thị Đ số tiền tạm ứng án phí 7.875.000đồng theo biên lai thu số 0002586 ngày 23/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Gạo.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các đương sự có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử theo trình tự phúc thẩm, đối với anh N, chị Đ kháng cáo tính từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án hợp lệ.Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự./ 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 248/2019/DS-ST ngày 22/08/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:248/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về