Bản án 247/2018/HSST ngày 23/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 247/2018/HSST NGÀY 23/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23/10/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 250/2018/HSST ngày 10/10/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 250/2018/HSST-QĐ ngày 12/10/2018 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Hoàng Văn T, (tên gọi khác: Hoàng Văn D), sinh năm 1971 tại huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Tiểu khu xx, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giơi tinh : Nam; tôn giao : Không; quôc tich : Viêt Nam; con ông Hoàng Văn T1 và bà Vũ Thị M; bị cáo có vợ là Quách Thị S và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/3/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Đã được xóa án tích); tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/7/2018 đến nay. Có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh năm 1954 tại huyện K, tỉnh Hưng Yên. Nơi cư trú: Tiểu khu x, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): 6/10; dân tộc: Kinh; giơi tinh : Nam; tôn giao : Không; quôc tich: Viêt Nam; con ông Nguyễn Văn T1 (đã chết) và bà Vũ Thị A; có vợ là Nguyễn Thị P, có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/7/2018 đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Chị Quách Thị S, sinh năm 1979. Nơi cư trú: Tiểu khu xx, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 30/7/2018, Hoàng Văn T điện thoại cho Nguyễn Văn T hỏi T có nhà không thì T đến. Sau đó T điều khiển xe máy BKS 26K8 – 5717 đến nhà T tại Tiểu khu x, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La. Khi đến nhà T, T bảo với T “Anh biết chỗ nào bán Heroine thì anh em mình đi làmmột tí’’ T bảo với T “Anh em mình xuống tiểu khu Chiềng Đi có thì mua”. Sau đó T điều khiển xe máy BKS 26K8 – 5717 chở T đến một lán nương bỏ hoang ở tiểu khu Chiềng Đi, thị trấn Nông Trường Mộc Châu thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông, T hỏi có heroine không người đàn ông dân tộc Mông bảo có đồng thời T đưa cho người Mông đó 100.000 đồng, người Mông đưa cho T một gói giấy màu trắng bên trong đựng Heroine. T đặt gói Heroine lên bàn định tìm dụng cụ cùng T sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu kiểm tra, phát hiện bắt quả tang thu giữ tại mặt bàn nơi T và T đang ngồi có 01 gói giấy màu trắng bên trong đựng Heroine. Tạm giữ của Nguyễn Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT kèm 01 sim; tạm giữ của Hoàng Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA X1 kèm theo 02 sim và 01 xe máy Wave RS – BKS 26K8 – 5717.

Ngày 30/7/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và Phòng PC54 - Công an tỉnh Sơn La đã mở niêm phong, xác định khối lượng số ma túy thu giữ của Hoàng Văn T và Nguyễn Văn T có khối lượng 0,22 gam, lấy 0,10 gam làm mẫu gửi giám định, mẫu ký hiệu T.

Tại kết luận giám định số 932 ngày 03/8/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy; Loại Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được 0,22 gam; Loại Heroine.

Bản cáo trạng số: 205/CT-VKSMC ngày 09/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã truy tố các bị cáo với nội dung: Truy tố ra trước

Toà án nhân dân huyện Mộc Châu để xét xử đối với bị can Hoàng Văn T và Nguyễn Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã phát biểu ý kiến, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Các bị cáo Hoàng Văn T và Nguyễn Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và áp dụng các căn cứ pháp luật để xử phạt đối với các bị cáo như sau:

1. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T từ 21 tháng đến 24 tháng tù. Phạt tiền đối với bị cáo từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 18 đến 21 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong đựng 0,12 gam Heroine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; Một phong bì niêm phong bên trong đựng 01 test thử ma túy của Hoàng Văn T; Một phong bì niêm phong bên trong đựng 01 test thử ma túy của Nguyễn Văn T.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA X1 để đảm bảo thi hành án về phần án phí.

Tịch thu tiêu hủy 01 sim điện thoại thu giữ của Nguyễn Văn T; 02 sim điện thoại thu giữ của Hoàng Văn T.

Tạm giữ của chị Hoàng Văn T 01 xe máy Wave RS – BKS 26K8 – 5717 để đảm bảo thi hành án.

4. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo nhất trí với nội dung cáo trạng và đề nghị của

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo và trách nhiệm hình sự:

Tại phiên toà, các bị cáo giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan điều tra, các bị cáo không Ty đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Các bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Các bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc các bị cáo đã thực hiện. Xét lời khai của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với nhau và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 13 giờ 40 phút ngày 30/7/2018; phù hợp với vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiến.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận: Ngày 30/7/2018 Hoàng Văn T, Nguyễn Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,22 gam Heroine, mục đích để sử dụng chung thì bị phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, quy định hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Về nhân thân, các bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy. Riêng bị cáo T đã từng có tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, mặc dù đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không tu dưỡng rèn luyện mà lại tiếp tục phạm tội về ma túy. Các bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Do vậy, cần xử phạt các bị cáo nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Hoàng Văn T là người khởi xướng việc mua ma túy về sử dụng nên giữ vai trò chính trong vụ án. Nguyễn Văn T là người tiếp nhận ý trí cùng với Hoàng Văn T đi mua ma túy nên là đồng phạm trong vụ án. Xét cần áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự, quyết định hình phạt phù hợp với tính chất và mức độ Tm gia của từng bị cáo trong đồng phạm.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đối với bị cáo Hoàng Văn T có bố đẻ và mẹ đẻ là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng huân huy chương, do đó được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết tăng nặng: Không.

[4] Về hình phạt bổ sung - phạt tiền: Quá trình điều tra, xác minh và xét hỏi tại phiên toà thấy các bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với các bị cáo.

[5] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho các bị cáo. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[6] Về vật chứng của vụ án:

Đối với: Một phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong đựng 0,12 gam Heroine và vỏ gói niêm phong ban đầu; Một phong bì niêm phong bên trong đựng 01 test thử ma túy của Hoàng Văn T và 01 phong bì bên trong đựng test thử ma túy của Nguyễn Văn T, xét là vật Nhà nước cấm tàng trữ, không có giá trị sử dụng, do đó cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT kèm 01 sim thu giữ của Nguyễn Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA X1 kèm theo 02 sim thu giữ của Hoàng Văn T. Là tài sản của các bị cáo, các bị cáo sử dụng để liên lạc với nhau về việc đi mua ma túy. Cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 xe máy Wave RS, BKS: 26K8 – 5717 đăng ký mang tên Quách Thị S là tài sản chung của Hoàng Văn T và chị Quách Thị S (vợ bị cáo), việc bị cáo T sử dụng xe để đi mua ma túy chị Quách Thị S không biết, do đó cần tuyên tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Xét thấy thời hạn tạm giam của các bị cáo còn lại dưới 45 ngày, Hội đồng xét xử quyết định tạm giam 45 ngày đối với các bị cáo để đảm bảo thi hành án hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn T, Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1, 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 30/7/2018.

Phạt bổ sung đối với bị cáo 1.000.000 đồng (Một triệu đồng).

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 30/7/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (Phạt tiền) đối với bị cáo.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật bên trong đựng 0,12 gam Heroine và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Hoàng Văn T và 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Nguyễn Văn T.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT, vỏ màu đen, vỏ sau biến dạng của Nguyễn Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA X1 – 01, vỏ màu đen, màn hình bị vỡ của Hoàng Văn T.

Tịch thu tiêu hủy 01 sim điện thoại của Nguyễn Văn T cùng vỏ gói niêm phong ban đầu; 02 sim điện thoại của Hoàng Văn T cùng vỏ gói niêm phong ban đầu.

Tạm giữ của bị cáo và vợ bị cáo là chị Quách Thị S 01 xe máy Wave RS – BKS 26K8 – 5717, sk: RIHJC4325AY144503, sm: JC43E – 5606785, yên rách, xe đã qua sử dụng, không kiểm tra máy móc bên trong để đảm bảo cho việc thi hành án.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Hoàng Văn T, Nguyễn Văn T phải chịu mỗi bị cáo 200.000đ

(Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 247/2018/HSST ngày 23/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:247/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về