Bản án 243/2019/DS-ST ngày 14/05/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 243/2019/DS-ST NGÀY 14/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 342/2018/TLST-DS ngày 17 tháng 8 năm 2018 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2019/QĐXXST-DS ngày 03 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2019/QĐST-DS ngày 22 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X

Địa chỉ: Tầng 2, Tòa nhà X, số 9 đường Y, phường Z, quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn theo ủy quyền: Bà Trần Thị T, sinh năm 1994 – địa chỉ: 60V đường Lg, phường L, quận T – văn bản ủy quyền số 1063/UQTA-VH.18 ngày 13/7/2018 (có đơn xin vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Lương Thanh L, sinh năm 1986.

Địa chỉ: 21/10/2 đường số X, khu phố Y, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 13/7/2018, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X có đại diện theo ủy quyền bà Trần Thị T trình bày:

Vào ngày 06/01/2015 ông Lương Thanh L và Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X ký với nhau hợp đồng tín dụng số 20150108-801002-0002, theo hợp đồng đã ký kết thì Công ty cho ông L vay số tiền là 23.210.000 đồng, lãi suất thỏa thuận là 3.75%/tháng, mục đích vay là tiêu dùng cá nhân. Theo thỏa thuận thì ông L có trách nhiệm thanh toán cho Công ty số tiền 39.049.000 đồng (cả gốc và lãi) trả chậm trong thời hạn 30 tháng, 29 tháng đầu mỗi tháng trả dần số tiền 1.302.000 đồng, tháng cuối cùng trả số tiền còn lại là 1.291.000 đồng, bắt đầu thực hiện kể từ ngày 09/02/2015.

Thực hiện hợp đồng ông L đã nhận đủ số tiền vay từ Công ty và thực hiện việc thanh toán cho Công ty được 01 lần với số tiền đã trả là 1.302.000 đồng và ngưng không thực hiện kể từ ngày 27/02/2015 cho đến nay, Công ty đã dùng nhiều biện pháp nhắc nhở, nhưng ông L vẫn không thực hiện; vì vậy Công ty làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án xem xét giải quyết:

Buộc ông Lương Thanh L phải có trách nhiệm thanh toán cho Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X số tiền nợ còn thiếu chưa thanh toán là 37.747.000 đồng.

Bị đơn ông Lương Thanh L: Từ khi thụ lý hồ sơ vụ án Tòa án nhân dân quận Thủ Đức đã tiến hành triệu tập ông L đến tòa để giải quyết việc kiện của Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X nhưng ông L không đến; Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông L theo quy định của pháp luật, nhưng ông L vẫn vắng mặt tại tòa mà không có lý do, nên mở phiên tòa xét xử vụ án.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Việc thụ lý vụ án, tiến hành thu thập chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử và diễn biến tại phiên tòa đã được Tòa án nhân dân quận Thủ Đức và Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án thực hiện đúng quy trình thủ tục theo quy định của pháp luật; về thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự, nguyên đơn chấp hành các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X.

Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án gồm có: Điều lệ Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X; giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty trách nhiệm hưu hạn một thành viên mã số doanh nghiệp 0102180545; Đơn đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng ngày 05/01/2015; phần duyệt của VPB FC ngày 09/01/2015; văn bản ủy quyền số 79/UQ-QTRR.18 ngày 13/6/2018; văn bản ủy quyền số 1063/UQTA-VH.18 ngày 13/7/2018; phiếu xác minh ngày 21/8/2018.

Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh; các nội dung đương sự đã thỏa thuận thống nhất được và không thống nhất được do ông L vắng mặt nên các đương sự không thỏa thuận được việc giải quyết vụ án, cũng như làm rỏ các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1.]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn ông Lương Thanh L cư trú tại địa chỉ số 21/10/2 đường số X, khu phố Y, phường T, quận T; nên thẩm quyền giải quyết vụ án này theo trình tự thủ tục sơ thẩm là Tòa án nhân dân quận Thủ Đức; được pháp luật quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện ngày 13/7/2018 và tài liệu, chứng cứ kèm theo của Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X, thì vụ án có quan hệ tranh châp là Tranh chấp về hợp đồng dân sự về hợp đồng vay tài sản được pháp luật quy định tại Khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2005.

[1.3]. Nguyên đơn Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X ủy quyền cho bà Trần Thị T tham gia tố tụng và được Tòa án chấp nhận là phù hợp với quy định tại Điều 85 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa bà Tình có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[1.4]. Bị đơn ông Lương Thanh L, sau khi thụ lý Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án số 342/TB-TLVA ngày 17/8/2018 cho ông L nhưng hết thời hạn được quy định tại Điều 174 và Điều 175 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ông L không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Tòa án tiếp tục triệu tập và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho ông L vào các ngày 12/3/2019 và ngày 29/3/2019, nhưng ông L vẫn vắng mặt tại tòa mà không có lý do chính đáng; Tòa án tiến hành lập biên bản về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ mà không hòa giải và thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc tiếp cận công khai chứng cứ cho ông L biết theo quy định tại Khoản 1 Điều 207, Khoản 2 Điều 208 và Khoản 3 Điều 210 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; đồng thời triệu tập ông L tham gia phiên tòa vào lúc 09 giờ 00 phút, ngày 22/4/2019 nhưng ông L vẫn không đến tòa tham gia xét xử vụ án. Hội đồng xét xử sau khi thảo luận và Quyết định hoãn phiên tòa và mở lại phiên tòa vào ngày hôm nay (14/5/2019), nhưng ông L vẫn vắng mặt tại tòa mà không có lý do chính đáng; nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông L là phù hợp, được pháp luật quy định tại Điều 227, Điều 233 và Điều 235 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 [2]. Về nội dung giải quyết vụ án và yêu cầu của đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:

Căn cứ vào Đơn đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng ngày 05/01/2015 của ông L có nội dung: “…Ông L có nguyện vọng vay số tiền 22.000.000 đồng từ Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng…”

Căn cứ vào phần phê duyệt của VPB FC có nội dung: “…số tiền vay được phê duyệt là 23.210.000 đồng (trong đó khoản vay tiêu dùng 22.000.000 đồng, phí bảo hiểm 1.210.000 đồng), thời hạn vay là 30 tháng tính từ ngày 09/01/2015, khoản trả hàng tháng 1.302.000 đồng, lãi suất vay 45.00/năm…”; như vậy việc vay nợ giữa Công ty và ông L là có thật, sự thỏa thuận các nội dung của đương sự được ghi trong hợp đồng không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội.

Thực hiện hợp đồng vay ông L đã thanh toán cho Công ty được 01 lần với số tiền đã trả là 1.302.000 đồng, số tiền còn lại là 37.747.000 đồng (trong đó tiền gốc là 22.778.375 đồng và tiền lãi là 14.968.625 đồng) ông L ngưng không thực hiện kể từ ngày 27/02/2015 cho đến nay. Do đó lỗi vi phạm hợp đồng vay thuộc về ông L , kéo dài thời gian trả nợ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Căn cứ vào các Điều 471, Điều 474 và Điều 476 Bộ luật dân sự năm 2005 thì việc đòi nợ của Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X là có căn cứ.

Từ những nhận định và phân tích nêu trên. Hội đồng xét xử, có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: 1.887.350 đồng ông Lương Thanh L phải chịu; Hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 3 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 1 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Khoản 1 Điều 273 và Khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng Điều 305, Điều 471 và Điều 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Áp dụng Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X.

Buộc ông Lương Thanh L phải có trách nhiệm thanh toán cho Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X số tiền nợ cả gốc và lãi còn thiếu chưa thanh toán là 37.747.000 (Ba mươi bảy triệu bảy trăm bốn mươi bảy nghìn) đồng (trong đó tiền gốc là 22.778.375 đồng và tiền lãi là 14.968.625 đồng).

Kể từ ngày bản án, có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: 1.887.350 (Một triệu tám trăm tám mươi bảy nghìn ba trăm năm mươi) đồng ông Lương Thanh L phải chịu; hoàn trả lại cho Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X số tiền 943.675 (Chín trăm bốn mươi ba nghìn sáu trăm bảy mươi lăm) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0022454 ngày 17/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Quyền kháng cáo, kháng nghị: Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên X, ông Lương Thanh L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ. Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức có quyền kháng nghị trong thời hạn 15 ngày; Viện kiểm sát nhân dân TP. Hồ Chí Minh có quyền kháng nghị trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày tuyên án.

4. Quyền yêu cầu Thi hành án: “Trường hợp bản án, được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải Thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 243/2019/DS-ST ngày 14/05/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:243/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về