Bản án 242/2019/HS-ST ngày 29/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 242/2019/HS-ST NGÀY 29/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 5 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 234/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 256/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Hồng N - tên gọi khác: Không; sinh năm 1975 tại TH; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ, phường C, thành phố TH, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Con ông Đặng Hồng T(đã chết) và con bà Trần Thị V, sinh năm 1945; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

+ Tại bản án số 126/HSPT ngày 19/8/1994 của Tòa án nhân dân tỉnh B (nay là tỉnh TH) xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội là 15 tháng tù. Thi hành xong phần án phí vào tháng 4/1999.

+ Tại bản án số 159/HSST ngày 14/8/1999 của Tòa án nhân dân thành phố TH xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân”; 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân” và 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả bốn tội là 42 tháng tù. Thi hành xong phần án phí và tiền phạt vào ngày 30/9/2011.

+ Tại Quyết định số 1521/QĐ-UB ngày 08/7/2003 của Ủy ban nhân dân tỉnh TH về việc đưa đối tượng vào cơ sở giáo dục Thanh Hà, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc đối với Đặng Hồng N thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 07/8/2005.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH từ ngày 08/01/2019 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

- Người chứng kiến:

1. Ông Vũ Đức H, sinh năm 1959 - trú tại tổ Y, phường C, thành phố TH (Vắng mặt tại phiên tòa)

2. Ông Nguyễn Mạnh N1, sinh năm 1967 – trú tại tổ Z, phường C, thành phố TH. (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 8 giờ ngày 08/01/2019, tổ công tác Công an phường C, thành phố TH đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ Y của phường thì phát hiện 01 nam thanh có biểu hiện liên quan đến ma túy, tổ công tác tiến hành kiểm tra. Nam thanh niên khai tên Đặng Hồng N, và tự giác lấy từ bên trong túi quần phía trước bên phải N đang mặc 01 gói giấy bạc mầu vàng, bên trong có chứa chất bột mầu trắng giao nộp cho Công an. N khai chất bột màu trắng là Heroin mua về để sử dụng cho bản thân.Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong thu giữ vật chứng theo quy định.

Cùng ngày tiến hành mở niêm phong cân xác định số chất bột màu trắng thu giữ của N có khối lượng 0,211 gam và lấy mẫu gửi giám định ký hiệu N.

Tại bản kết luận giám định số 272/KL-PC09 ngày 15/01/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh TH kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu N gửi giám định là chất ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng 0,211gam.

Tại Cơ quan điều tra, Đặng Hồng N khai nhận: Khoảng 7 giờ 30 phút, ngày 08/01/2019 N đi bộ từ nhà ra khu vực đường tàu chợ Khu Nam thuộc tổ Y, phường C, thành phố TH mục đích mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Nguyên mua của một người đàn ông (không biết lai lịch địa chỉ) 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa Heroin với giá 200.000đ. Sau đó N cất gói ma túy vừa mua vào túi quần phía trước bên phải đang mặc đi tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường C, thành phố TH phát hiện bắt quả tang.

Lời khai nhận của Đặng Hồng N phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 bì niêm phong ký hiệu N

Bản Cáo trạng số 236/CT-VKSTPTN ngày 22 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo Đặng Hồng N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay Đặng Hồng N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Trong lời luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Đặng Hồng N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt Đặng Hồng N từ 30 đến 36 tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu N.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội.

Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố TH trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay hoàn toàn tự nguyện, khách quan và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản cân xác định khối lượng, biên bản mở niêm phong vật chứng, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, vật chứng thu giữ, kết luận giám định. Như vậy, có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định:

Hồi 08 giờ ngày 08/01/2019, tại khu vực tổ Y, phường C, thành phố TH, Đặng Hồng N có hành vi tàng trữ 0,211 gam Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất matúy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a, b

c, Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân và xã hội nhưng không chịu tu dưỡng bản thân mà vẫn thực hiện hành vi phạm tội, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải đã khai nhận hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu đã hai lần bị Tòa án xét xử phạt tù giam nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, mà vẫn tiếp tục phạm tội. Vì vậy cần phải xét xử bị cáo với mức án phù hợp với hành vi bị cáo gây ra, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS.Tuy nhiên xác định bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án: Cần tịch thu tiêu huỷ toàn bộ 01 bì niêm phong ký hiệu N bên trong chứa ma túy thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số Heroine bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết. Do không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Hồng N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Hồng N 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/01/2019.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 bì niêm phong ký hiệu N. (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận số 291 ngày 08/5/2019 giữa Công an thành phố TH với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TH)

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đặng Hồng N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 242/2019/HS-ST ngày 29/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:242/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về