Bản án 242/2019/HNGĐ-ST ngày 28/10/2019 về ly hôn giữa bà C và ông H

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 242/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/10/2019 VỀ LY HÔN GIỮA BÀ C VÀ ÔNG H

Ngày 28/10/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Biên Hòa - tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 1717/2019/HNGĐ-ST ngày 05 tháng 8 năm 2019 về việc “Xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 244/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 360/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18/10/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Quách Thị C, sinh năm 1983.

Đa chỉ: tổ 15, ấp Tân M, P. P, TP. B, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Ông Đoàn Thiện H, sinh năm 1978.

Đa chỉ: tổ 15, ấp Tân M, P. P, TP. B, tỉnh Đồng Nai.

(Ông H, bà C vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Quách Thị C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và ông Đ T H xây dựng gia đình với nhau vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường P, thành phố B, tỉnh Đ, hôn nhân tự nguyện. Chúng tôi chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu, sau đấy phát sinh mâu thuẫn, không thể hòa giải hàn gắn được dẫn đến chúng tôi đã ly thân 05 năm nay. Nguyên nhân là do áp lực về kinh tế và chăm sóc con cái, dẫn đến thường xuyên cải vã nhau. Nay xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên tôi làm đơn xin ly hôn với ông H.

Về con chung: Có 03 con chung tên là Đ T L, sinh ngày 29/04/2010, Đ P M, sinh ngày 10/12/2011 và Đ P T, sinh ngày 09/10/2014. Khi ly hôn tôi có nguyện vọng nuôi dưỡng, chăm sóc cháu T, tôi đồng ý giao cháu L và cháu M cho ông H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời tôi không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và bà C xây dựng gia đình với nhau vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường P, thành phố B, tỉnh Đ, hôn nhân tự nguyện, không bị ai đe dọa, cưỡng ép. Chúng tôi chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu, sau đó phát sinh mâu thuẫn như bà C trình bày, chúng tôi đã ly thân được 05 năm nay. Nay xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, bà C đã có đơn gửi đến Tòa án nhưng do tôi theo đạo nên không thể đồng ý ly hôn. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Về con chung: Có 03 con chung tên Đ T L, sinh ngày 29/04/2010, Đ P M, sinh ngày 10/12/2011 và Đ P T, sinh ngày 09/10/2014. Tôi có nguyện vọng nuôi dưỡng, chăm sóc cháu M và cháu L, tôi đồng ý giao cháu T cho bà C được tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời tôi không yêu cầu bà C cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông H hiện cư trú tại địa bàn TP. B nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP Biên Hòa theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tống tụng cho ông H nhưng ông chỉ đến Tòa án làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng và hòa giải mà không đến Tòa án tham gia xét xử, bà C có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ Điều 207, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành đưa vụ án xét xử vắng mặt đối với bà C và ông H.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông Đ T H và bà Quách Thị C có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường P, TP. B, tỉnh Đồng Nai trên cơ sở cả hai tự nguyện nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp, áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

Quá trình chung sống theo bà C trình bày sau khi kết hôn vợ chồng ông bà sống hạnh phúc chỉ thời gian đầu, sau đấy phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do áp lực về kinh tế và chăm sóc con cái, dẫn đến thường xuyên cải vã nhau. Ông bà đã ly thân được 05 năm nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông H để trả tự do cho nhau.

Ông H cũng thừa nhận quá trình chung sống hai vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn đúng như bà C trình bày, ông bà đã ly thân được 05 năm nay, tình cảm vợ chồng không còn nhưng do ông theo đạo nên không thể đồng ý ly hôn.

Xét thấy mâu thuẫn giữa bà C và ông H là có thật, ông bà xác định không còn tình cảm nhưng do ông theo đạo nên không thể đồng ý ly hôn. Do vậy nghĩ nên chấp nhận đơn xin ly hôn của bà C, giải quyết cho bà được ly hôn với ông H là phù hợp.

[4] Về con chung: Ông H, bà C có 03 con chung tên Đ T L, sinh ngày 29/04/2010, Đ P M, sinh ngày 10/12/2011 và Đ P T, sinh ngày 09/10/2014. Ông H, bà C thỏa thuận giao cháu M và cháu L cho ông H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giao cháu T cho bà C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời hai bên không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Các cháu M, L cũng có nguyện vọng muốn ở với ông H. Vì vậy, thiết nghĩ nên giao cháu M và cháu L cho ông H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giao cháu Trang cho bà C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp quy định pháp luật, tạm thời cả hai không cấp dưỡng nuôi con.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông H, bà C được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng

[5] Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[7] Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Bà C phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định, trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà C đã nộp 300.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa theo biên lai số 0008916 ngày 23/7/2019, bà C đã nộp xong.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 235; Điều 238 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng các Điều 51, 54, 57, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà quách Thị C.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Quách Thị C được ly hôn với ông Đ T H Về con chung: Giao cháu Đ T L, sinh ngày 29/04/2010, Đ P M, sinh ngày 10/12/2011 cho ông Đ T H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành và có khả năng lao động. Giao cháu Đ P T, sinh ngày 09/10/2014 cho bà C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành và có khả năng lao động, tạm thời ông H, bà C không cấp dưỡng nuôi con chung.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông H, bà C được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con khi cần thiết, các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: không có nên không đặt ra xem xét.

Án phí HNGĐ sơ thẩm: Bà C phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định, trừ vào số tiền ạm tứng án phí bà C đã nộp 300.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa theo biên lai số 0008916 ngày 23/7/2019, bà C đã nộp xong.

Bà C và ông H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 242/2019/HNGĐ-ST ngày 28/10/2019 về ly hôn giữa bà C và ông H

Số hiệu:242/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về