Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 23/03/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 24/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/03/2021 VỀ LY HÔN

 Ngày 23 tháng 3 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 922/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03-02- 2021; Quyết định hoãn phiên toàn số 21/2021/QĐST-HNGĐ ngày 03-3-2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Kim L, sinh năm 1996 (có mặt) Địa chỉ: số D đường ĐL, phường H, thành phố V, tỉnh B

2. Bị đơn: Ông Trần Thái B, sinh năm 1988 (vắng mặt) Địa chỉ: số A đường B, phường K, thành phố V, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, lời khai trong trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Phạm Thị Kim L trình bày:

Bà L và ông Trần Thái B tự nguyện chung sống, có tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng B vào năm 2013.

Quá trình chung sống, sau khi có con chung thứ hai được 06 tháng, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Ông B thường xuyên nhậu nhẹt, không quan tâm đến vợ con. Bà đã nhiều lần góp ý khuyên nhủ nhung ông B không sửa đổi. Khuyên nhủ không được, bà dẫn theo cháu Tr bỏ nhà và chuyển đi nơi khác sinh sống. Vợ chồng bà ly thân từ đó đến nay. Nay bà thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt, không thể tiếp tục chung sống, bà yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về hôn nhân: bà yêu cầu được ly hôn với ông Trần Thái B.

- Về con chung: bà và ông B có 02 con chung tên Trần Thanh T, sinh ngày 29-8-2013 và Trần Nhật Tr, sinh ngày 04-02-2016. Bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Trần Nhật Tr và nhường quyền nuôi cháu Trần Thanh T cho ông B và không ai phải cấp dưỡng nuôi con - Về tài sản chung và nợ chung: bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 09-11-2020, bị đơn ông Trần Thái B trình bày: ông và bà Phạm Thị Kim L có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng B vào năm 2013. Ông và bà L có 02 con chung là Trần Thanh T, sinh ngày 29- 8-2013 và Trần Nhật Tr, sinh ngày 04-02- 2016. Ông cho rằng, vợ chồng sinh sống với nhau không có mâu thuẫn gì lớn nhưng bà L tự ý bỏ nhà theo người đàn ông khác, ông có đi tìm mấy lần mà không gặp. Nay bà L yêu cầu ly hôn, ông đồng ý ly hôn. Về con chung: Ông đồng ý là người trực tiếp nuôi con chung là Trần Thanh T, sinh ngày 29-8- 2013. Đối với cháu Trần Nhật Tr, ông không đồng ý bà L là người trực tiếp nuôi cháu Tr, ông yêu cầu tòa cho ông là người trực tiếp nuôi cháu Tr và không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết.

Ý kiến đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

Về trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện đúng quy định pháp luật về tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của đương sự, nhận thấy mâu thuẫn hôn nhân giữa bà L và ông B là có thật, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, vợ chồng có thời gian ly thân từ năm 2016 cho đến nay, mục đích hôn nhân không đạt nên có cơ sở đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn. Về con chung chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn: giao cho bà L được trực tiếp nuôi cháu Trần Nhật Tr, giao cháu Trần Thanh T cho ông B là người trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng, Tòa án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Phạm Thị Kim L có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Trần Thái B, ông B cư trú tại thành phố V nên xác định đây là vụ án hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố V theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa thì thấy: Bị đơn ông Trần Thái B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

[2] Về nội dung yêu cầu của nguyên đơn [2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Kim L và ông Trần Thái B tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 13-9-2013 tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Quảng Tr, tỉnh Quảng B nên quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông B là hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà L cương quyết yêu cầu ly hôn vì cho rằng hôn nhân giữa bà và ông B không thể kéo dài, nguyên nhân mâu thuẫn là do ông B thường xuyên nhậu nhẹt, bỏ bê vợ con, bà đã khuyên giải nhiều lần nhưng ông B không từ bỏ nên bà và ông B đã ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Việc bà L yêu cầu ly hôn là ông B đồng ý.Theo xác minh tại địa phương, bà L và ông B có xảy ra nhiều mâu thuẫn, vợ chồng đã ly thân nhiều năm nay.

Xét thấy mâu thuẫn tình cảm giữa bà L và ông B là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thể chung sống với nhau nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L.

[2.2 ] Về con chung: Bà L và ông B có 02 con chung tên Trần Thanh T, sinh ngày 29-8-2013 và Trần Nhật Tr, sinh ngày 04-02-2016.

Ly hôn, bà L nhường quyền nuôi cháu Trần Thanh T cho ông B. Ông B đồng ý và theo nguyện vọng của cháu T, Hội đồng xét xử giao cháu Trần Thanh T, sinh ngày 29-8-2013 cho ông B trực tiếp nuôi dưỡng, bà L không phải cấp dường nuôi cháu T.

Đối với cháu Trần Nhật Tr, theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa bà L yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Tr không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con; quá trình làm việc, ông B cũng yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Tr và không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi cháu Tr.

Theo kết quả xác minh tại địa phương, từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay, cháu Trần Nhật Tr được bà L là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Hơn nữa cháu Tr hiện còn nhỏ rất cần sự chăm sóc của người mẹ.Vì vậy, để tránh bị xáo trộn và nhằm đảm bảo sự phát triển về thể chất, tinh thần cho cháu Tr nên tòa án tiếp tục giao cháu Trần Nhật Tr cho bà L là người trực tiếp nuôi dưỡng, ông B không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà L và ông B có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con chung, trên cơ sở yêu cầu của một hoặc các bên đương sự hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật. Tòa án có the quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn, bị đơn không yêu cầu giải quyết nên Hội đông xét xử không xem xét giải quyết

[3]về Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà L phải nộp 300.000 đồng Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 2, 3 Điều 36 điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 228, Điều 271 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sừ dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Kim L đối với ông Trần Thái B.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: bà Phạm Thị Kim L được ly hôn với ông Trần Thái B.

[2Ị. Về con chung: Bà Phạm Thị Kim L và ông Trần Thái B có 02 con chung tên Trần Thanh T, sinh ngày 29-8-2013 và Trần Nhật Tr, sinh ngày 04- 02-2016 Ông Trần Thái B được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Thanh T, sinh ngày 29-8-2013, bà Phạm Thị Kim L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Nhật Tr, sinh ngày 04-02-2016. Bà L và ông B không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà L, ông B được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con chung, trên cơ sở yêu cầu của một hoặc các bên đương sự hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[3|. Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn và bị đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[4] Về Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: bà Phạm Thị Kim L phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0008151 ngày 20-10-2020 của Chi cục Thi hành dân sự thành phố V. Bà L đã nộp đủ.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kê từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a, 7b, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 23/03/2021 về ly hôn

Số hiệu:24/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về