Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 24/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN 

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 348/2020/TLST- HNGĐ ngày 21/10/2020 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/12/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/QĐST-HNGĐ ngày 05/01/2021 của Toà án nhân dân huyện Gò Công Tây, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn : NGUYỄN THỊ THU D – sinh năm 1989;

Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn VÕ THANH L – sinh năm 1990;

Địa chỉ: Ấp H, xã Đ, huyện G, tỉnh Tiền Giang.

(nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu D trình bày: Chị và anh Võ Thanh L cưới nhau vào năm 2012, có sự tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ. Sau khi cưới chị và anh L sống hạnh phúc đến đầu tháng 5/2019 thì phát sinh mâu thuẫn do anh L cờ bạc dẫn bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chị còn nghi ngờ anh L có quan hệ với người phụ nữ khác. Đời sống chung kéo dài đến tháng 9/2019 thì sống ly thân cho đến nay.

Nay chị D yêu cầu xin ly hôn với anh L.

- Về con chung: Có 01 cháu tên Võ Tấn Đ – sinh ngày 11/6/2015, hiện cháu Đ đang sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Đ, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

* Tại văn bản lời khai của bị đơn anh Võ Thanh L trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Thu D cưới nhau vào năm 2012, có sự tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ. Sau khi cưới anh và chị D sống hạnh phúc đến giữa năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, nên đã sống ly thân từ giữa năm 2019 cho đến nay. Nay chị D yêu cầu xin ly hôn, phía anh L không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Có 01 cháu tên Võ Tấn Đ – sinh ngày 11/6/2015, hiện cháu Đ đang sống với chị D. Nếu ly hôn anh yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Đ, không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa hôm nay:

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu D vẫn giữa nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh Võ Thanh L; về con chung: chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Võ Tấn Đ – sinh ngày 11/6/2015, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung: không có.

Bị đơn anh Võ Thanh L vắng mặt.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng pháp luật tố tụng dân sự và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thu D; về con chung: giao cho chị Nguyễn Thị Thu D được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Võ Tấn Đ – sinh ngày 11/6/2015, anh Võ Thanh L không phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa cùng lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xác định quan hệ đang tranh chấp là “Xin ly hôn”.

[1] Xét bị đơn anh Võ Thanh L đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh L vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt anh L.

[2] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thu D là có cơ sở. Vì chị Nguyễn Thị Thu D và anh Võ Thanh L cưới nhau vào năm 2012, được sự tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ số 105 ngày 13/11/2012. Sau khi cưới chị D và anh L sống hạnh phúc đến giữa năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, nên chị D và anh L sống ly thân từ giữa năm 2019 cho đến nay, mà giữa chị D, anh L vẫn không hàn gắn được tình cảm. Cho thấy mâu thuẫn giữa chị D và anh L đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, đời sống chung không thể kéo dài. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị D và anh L đều yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Võ Tấn Đ – sinh ngày 11/6/2015. Xét yêu cầu của chị D là có cơ sở vì hiện tại cháu Đ đang sống với chị D đã ổn định cuộc sống, nếu thay đổi sẽ ảnh hưởng tâm lý cũng như sinh hoạt bình thường của cháu Đ. Do đó để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho cháu Đ, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Đ cho chị D nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị D không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Không có. [6] Về nợ chung: Không có [7] Về án phí: Do chị D là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên chị D phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các điều 175, 179, 227, 228, 233, 235 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

Xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thu D.

Chị Nguyễn Thị Thu D được ly hôn với anh Võ Thanh L.

- Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Thu D được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Võ Tấn Đ – sinh ngày 11/6/2015 cho đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi, lao động được. Anh Võ Thanh L không phải cấp dưỡng nuôi con. Anh Võ Thanh L được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà chị D đã nộp theo biên lai thu số 0016900 ngày 21/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Công Tây, do vậy chị D đã nộp xong án phí.

Báo nguyên đơn có mặt biết được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Báo bị đơn vắng mặt biết được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt án văn hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:24/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về