Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 16/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 24/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 46/2021/TLST-HNGĐ ngày 26/01/2021 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Võ Thu T, sinh năm 1974.

Địa chỉ thường trú: Tổ 1, Ấp 3, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương. (vắng mặt và có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1969.

Địa chỉ thường trú: Tổ 2, khu phố V, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn trình bày:

Bà Võ Thu T và ông Lê Văn Đ tự nguyện kết hôn vào năm 2011 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Bình Dương, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 34 ngày 29/4/2011.

Quá trình chung sống, giữa hai vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng không có tiếng nói chung, không cùng quan điểm, lối sống. Nguyên nhân do ông Đ không lo làm ăn mà thường xuyên đánh bạc, cá độ đá banh khiến bà T phải trả nợ thay nhiều lần. Bà T đã nhiều lần khuyên can nhưng ông Đ không có sự thay đổi. Từ năm 2014 đến nay, hai vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, bà T đã về nhà mẹ đẻ tại huyện B sinh sống, ông Đ vẫn sống tại nhà của hai vợ chồng tại tổ 2, khu phố V, phường T, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn nên bà T yêu cầu ly hôn với ông Lê Văn Đ.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà Võ Thu T và ông Lê Văn Đ có một con chung là Lê Thành H, sinh ngày 13/7/2012. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay, cháu Hiếu đang học lớp 3 trường tiểu học H, tại xã T, huyện B và hiện đang ở cùng với bà T tại Tổ 1, Ấp 3, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương. Bà T đang làm công nhân công ty may Wantes với mức lương hàng tháng khoảng 9.000.000 đồng – 10.000.000 đồng và có nhà ở ổn định tại huyện B nên có đủ điều kiện để nuôi con.

quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Võ Thu T không yêu cầu Tòa án giải Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn ông Lê Văn Đ nhưng ông Đ không đến Tòa án tham gia tố tụng, không gửi văn bản có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Võ Thu T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn ông Lê Văn Đ vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

+ Về tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật. Vụ án được đưa ra xét xử đúng thời hạn theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định tại chương XIV về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ được quy định tại theo các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự. Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không có.

+ Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Bà Võ Thu T khởi kiện yêu cầu ly hôn và yêu cầu được trưc tiếp nuôi con với ông Lê Văn Đ. Tại thời điểm thụ lý vụ án, bị đơn ông Lê Văn Đ đang cư trú tại phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Võ Thu T vắng mặt và có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt; bị đơn ông Lê Văn Đ đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà T, ông Đ.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Ngày 29/4/2011, bà Võ Thu T và ông Lê Văn Đ tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T (nay là thị xã T), tỉnh Bình Dương nên quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông Đ là hợp pháp theo quy định tại Điều 9 và Điều 11 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Quá trình chung sống, bà T xác định giữa hai vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng không có tiếng nói chung, không cùng quan điểm, lối sống. Nguyên nhân do ông Đ không lo làm ăn mà thường xuyên đánh bạc, cá độ đá banh khiến bà T phải trả nợ thay nhiều lần. Bà T đã nhiều lần khuyên can nhưng ông Đ không có sự thay đổi. Từ năm 2014 đến nay, hai vợ chồng đã không còn chung sống với nhau, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, bà T đã về nhà mẹ đẻ tại huyện B sinh sống, ông Đ vẫn sống tại nhà của hai vợ chồng tại tổ 2, khu phố V, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Mặt khác, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập ông Đ nhiều lần để tiến hành hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng ông Đ vẫn cố tình vắng mặt, điều này chứng tỏ ông Đ không có thiện chí mong muốn gia đình được đoàn tụ. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định, hôn nhân giữa bà T và ông Đ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của bà T là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2.2] Về con chung: Quá trình chung sống, bà Võ Thu T và ông Lê Văn Đ có 01 con chung là Lê Thành H, sinh ngày 13/7/2012. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung. Xét thấy, hiện nay, cháu H đang do bà T trực tiếp nuôi dưỡng, bà T có nơi ở, công việc và thu nhập ổn định đảm bảo điều kiện nuôi con. Đồng thời, cháu H cũng có nguyện vọng được sống chung với bà T. Ông Đ cũng không có yêu cầu về việc trực tiếp nuôi con. Do đó, việc bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình nên có cơ sở chấp nhận.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên là phù hợp.

[4] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bà Võ Thu T phải nộp số tiền 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thu T về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con đối với bị đơn ông Lê Văn Đ.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thu T được ly hôn với ông Lê Văn Đ.

1.2. Về con chung: Giao con chung là Lê Thành H, sinh ngày 13/7/2012 cho bà Võ Thu T được quyền trực tiếp nuôi.

1.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Vì lợi ích hợp pháp của con chung, khi đương sự có yêu cầu Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

1.4. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Võ Thu T phải nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ vào số tiền đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2016/0052220 ngày 25/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên.

3. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 16/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:24/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về