Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 12/04/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN HUYỆN BÌNH ĐẠI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 24/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 12 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Đại, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án đã thụ lý số: 528/2020/TLST –HNGĐ ngày 20 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/3/2021 giữa các đương sự:

Ngun đơn: Nguyn Thị Thùy T, sinh năm 1990. (Có mặt) Địa chỉ: ấp L H, xã L H, huyện B Đ, tỉnh T.

Bị đơn: Phm Trần Đức D, sinh năm 1983. (Có mặt) Địa chỉ: ấp L T, xã L H, huyện B Đ, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 14/10/2020 và những lời khai trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thùy T trình bày như sau:

Chị và anh Phạm Trần Đức D sống chung với nhau từ vào năm 2013, trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã Long Hòa. Quá trình chung sống có hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng thường xuyên cãi nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống vợ chồng bất hòa.

Vì vậy, chị và anh D đã ly thân từ tháng 7 năm 2020 cho đến nay. Nay chị không còn tình cảm với anh D, nên chị yêu cầu ly hôn với anh Phạm Trần Đức D.

Về con chung: Có 01 con chung là Phạm Ngọc Bảo T, sinh ngày 13/11/2013. Hiện nay cháu T đang sống với chị. Chị yêu cầu tiếp tục nuôi cháu T và không yêu cầu anh D cấp Dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

* Tại bản tự khai ngày 23/3/2021 và những lời khai trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Phạm Trần Đức D trình bày.

Anh và chị Nguyễn Thị Thùy T cưới nhau vào năm 2013, trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã Long Hòa. Quá trình sinh sống có hạnh phúc đến tháng 7 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh thường xuyên đi đám tiệc, đi chơi với bạn bè dẫn đến chị T buồn thường xuyên về nhà mẹ ruột. Vì vậy, vợ chồng đã đã ly thân từ tháng 7 năm 2020 cho đến nay, trong thời gian ly thân vợ chồng anh vẫn liên lạc tìm cách hàn gắn. Nay anh vẫn còn thương chị T, nên anh không đồng ý ly hôn với chị Nguyễn Thị Thùy T.

Về con chung: Có 01 con chung là Phạm Ngọc Bảo T, sinh ngày 13/11/2013. Hiện nay cháu T đang sống với chị T. Nếu vợ chồng anh ly hôn, anh đồng ý để chị T tiếp tục nuôi cháu T và anh không cấp Dỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại phát biểu quan điểm:

Về tố tụng:

Đối với Thẩm phán có chấp hành tốt theo quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, thực hiện đúng các nguyên tắc do pháp luật quy định.

Các đương sự chấp hành tốt quy định bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung:

Căn cứ vào Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Thùy T đối với anh Phạm Trần Đức D.

Về con chung: chị T và anh D có 01 con chung là Phạm Ngọc Bảo T, sinh ngày 13/11/2013.

Chị T yêu cầu tiếp tục nuôi cháu T. Chị T không yêu cầu anh D cấp Dỡng nuôi con. Nhận thấy cháu T được chị T nuôi Dỡng và phát triển bình thường khỏe mạnh nên tiếp tục giao cháu T cho chị T tiếp tục nuôi Dỡng là phù hợp và phù hợp với nguyện vọng của cháu T. Ghi nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu chị D cấp Dỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, nên không xét đến. Về nợ chung: Không có, nên không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, phát biểu của kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Phạm Trần Đức D và bà Nguyễn Thị Thùy T cưới nhau vào năm 2013, trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã Long Hòa vào năm 2013 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống có hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Tuy vợ chồng anh D và chị T không thống nhất nguyên nhân mâu thuẫn, theo chị T trình bày nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng thường xuyên cãi nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Vì vậy, vợ chồng anh, chị đã ly thân từ tháng 7 năm 2020 cho đến nay.

Tuy anh D không đồng ý ly hôn nhưng tại phiên tòa anh D thừa nhận vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do anh thường xuyên đi đám tiệc, đi chơi dẫn đến chị T buồn thường xuyên về nhà mẹ ruột.

Qua xác minh tại địa phương thì cuộc sống vợ chồng anh D và chị T đã có sự mâu thuẫn, không thể hàn gắn được.

Từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh D là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị T yêu cầu được ly hôn với anh D là phù hợp với Điều 56 luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[2] Về con chung: chị T và anh D có 01 con chung là Phạm Ngọc Bảo T, sinh ngày 13/11/2013.

Chị T yêu cầu tiếp tục nuôi cháu T. Chị T không yêu cầu anh D cấp Dỡng nuôi con. Nhận thấy cháu T được chị T nuôi Dỡng và phát triển bình thường khỏe mạnh nên giao cháu T cho chị T tiếp tục nuôi Dỡng là phù hợp với nguyện vọng của cháu T. Ghi nhận sự tự nguyên của chị T không yêu cầu anh D cấp Dỡng nuôi con.

[3] Về tài sản chung: Chị T và anh D khai không có, nên không xét đến.

[4] Về nợ chung: Chị T và anh D khai không có, nên không xét đến.

[5] Đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Chị T phải chịu 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 119 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyeân xöû:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Thùy T đối với anh Phạm Trần Đức D. Chị T được ly hôn với anh D. Quan hệ hôn nhân của chị T và anh D chấm dứt kể từ ngày bản án ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Chị T được tiếp tục nuôi cháu Phạm Ngọc Bảo T, sinh ngày 13/11/2013. Ghi nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh D cấp Dỡng nuôi con.

Anh D không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Chị T trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh D trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi Dỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích con, theo yêu cầu của cha, mẹ, cá nhân hoặc tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 và Điều 119 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và quyết định việc cấp Dỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị T và anh D khai không có, nên không xét đến.

4. Về nợ chung: Chị T và anh D khai không có, nên không xét đến.

5. Veà aùn phí hoân nhaân và gia đình sô thaåm: chị Nguyễn Thị Thùy T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0002171 ngày 20/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Vậy án phí Nguyễn Thị Thùy T đã nộp đủ.

Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 12/04/2021 về ly hôn

Số hiệu:24/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về