Bản án 24/2020/HNGĐ-ST ngày 17/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 24/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 225/2020/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 90/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Hồ Văn T, sinh năm 1966;

Đa chỉ: Tổ 1, khu phố 2, thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1970;

Đa chỉ: Tổ 1, khu phố 2, thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai.

(Ông T và bà T1 đều có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/6/2020 và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là ông Hồ Văn T trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị T1 tự nguyện tìm hiểu, chung sống như vợ chồng với nhau vào năm 1993, do không am hiểu pháp luật nên ông và bà T1 không đăng ký kết hôn. Ông và bà T1 có 02 người con chung là Hồ Văn P, sinh ngày 25/10/1994 và Hồ Nguyên V, sinh ngày 23/01/2004.

Ông, bà chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn do không còn có sự tin tưởng và T trọng lẫn nhau; quan điểm sống không phù hợp, luôn bất hòa. Mặc dù ông đã nhường nhịn nhưng vẫn không có kết quả và mâu thuẫn giữa ông và bà T1 ngày càng trầm trọng hơn. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng đã không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên ông xin được ly hôn với bà T1. Ông đồng ý để bà T1 trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu V. Còn cháu P đã thành niên và có khả năng lao động nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông và bà T1 không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của ông và bà T1 trong vụ án này * Tại bản tự khai ngày 03/7/2020 và trong quá trình tham gia tố tụng, bị đơn là bà Nguyễn Thị T1 trình bày:

Về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung của bà và ông T, cũng như mâu thuẫn vợ chồng như ông T trình bày là đúng. Bà và ông T chung sống từ năm 1993, không đăng ký kết hôn. Ông T và bà cũng chưa từng kết hôn với ai. Mâu thuẫn giữa bà và ông T đã trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên bà đồng ý lý hôn. Con chung của bà và ông T là cháu P thì đã thành niên nên bà không có ý kiến gì còn cháu V thì bà nhận nuôi và tạm thời không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con. Bà và ông T không có nợ chung. Bà cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của bà và ông T trong vụ án này.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu phát biểu quan điểm:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nhng người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình. Yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn T về việc xin ly hôn với bà Nguyễn Thị T1 là có cơ sở, nhưng do họ không có đăng ký kết hôn không giải quyết cho ly hôn mà đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận ông T và bà T1 là vợ chồng. Ông T và bà T1 đã thống nhất thỏa thuận được với nhau về việc nuôi con chung, do vậy đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu V cho bà T1 trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời ông T không phải cấp dưỡng nuôi con. Các đương sự đều khai không có nợ chung và không yêu cầu giải quyết về tài sản chung nên không phải đặt ra giải quyết. Ông T phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Hồ Văn T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông T được ly hôn với bà Nguyễn Thị T1 và tranh chấp về việc nuôi con chung. Bà T1 cư trú tại: tổ 1, khu phố 2, thị trấn V, huyện V, tỉnh Đồng Nai. Do vậy quan hệ pháp luật của vụ án này được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

[2] Về nội dung:

2.1 Về quan hệ hôn nhân: Ông T và bà T1 chung sống như vợ chồng với nhau từ năm 1993 nhưng cho đến nay vẫn không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình. Do vậy Hội đồng xét xử không công nhận việc thuận tình ly hôn mặc dù bà T1 đồng ý với yêu cầu của ông T mà căn cứ Nghị quyết số: 35/2000/NQ-QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000, về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 9, Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình không công nhận ông T và bà T1 là vợ chồng.

2.2 Về con chung: Cháu là Hồ Văn P đã thành niên và có khả năng lao động, không ai có ý kiến, yêu cầu gì nên không phải đặt ra giải quyết. Đối với cháu Hồ Nguyên V thì các đương sự đã thống nhật thỏa thuận giao cho bà T1 trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời ông T không phải cấp dưỡng nuôi con. Đây là thỏa thuận tự nguyện, không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

2.3 Về tài sản chung: Các đương sự đề nghị để họ tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

2.4 Về nợ chung: Các đương sự đều khai không có, cũng không có ai khác không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết về nợ chung của ông T, bà T1 trong vụ án này.

[3] Về án phí: Ông T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí được khấu trừ vào tiền án phí.

[4] Quan điểm và đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều: 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng khoản 2 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

Áp dụng các Điều 9, 14, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số: 35/2000/NQ-QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 của Quốc Hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTUQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận ông Hồ Văn T và bà Nguyễn Thị T1 là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cháu Hồ Nguyên V, sinh ngày 23/01/2004 cho bà Nguyễn Thị T1 trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Tm thời ông Hồ Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Khi cần thiết vì lợi ích của con, các bên có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Ông T và bà T1 tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Ông T và bà T1 đều khai không có và không có ai khác yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết về nợ chung của ông T, bà T1 trong vụ án này.

5. Về án phí: Ông Hồ Văn T phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) mà ông T đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003078 ngày 30/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Như vậy ông T đã nộp đủ tiền án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2020/HNGĐ-ST ngày 17/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:24/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về