Bản án 24/2019/HSST ngày 27/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 24/2019/HSST NGÀY 27/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 02 năm 2019. Tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2019/HSST ngày 31 tháng 01 năm 2019; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2019/QĐ-HSST ngày 14 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: VÕ XUÂN B. Sinh ngày 08 tháng 4 năm 1987. Nơi sinh: Lâm Đồng. Nơi ĐKNKTT: Thôn H, xã T, huyện H, Lâm Đồng. Chỗ ở: Thôn H, xã T, huyện H, Lâm Đồng. Nghề nghiệp: Làm vườn. Trình độ học vấn: Lớp 7/12. Con ông: Võ Xuân V, sinh năm 1957; Con bà: H, sinh năm 1951. Hiện ở tại: Thôn H, xã T, huyện H, Lâm Đồng. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Tại bản án số 115/2015/HSST ngày 30/7/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 12 năm tù về tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/02/2016. Tiền sự: Không. Bị bắt ngày 13/11/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ, Lâm Đồng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Xuân B là đối tượng đã có tiền án về tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”. Trong quá trình chấp hành án tại Trại giam B, Lâm Đồng, B có quen biết một người tên H (không rõ lai lịch, địa chỉ). Khoảng 11 giờ ngày 13/11/2018, khi B đang ngồi uống cà phê một mình tại quán cà phê Milano trên đường T, Phường T, thành phố Đ thì gặp H. Tại đây, H đã cho B 01 gói ma túy và B đã cất giấu gói ma túy này trong người với mục đích để sử dụng dần. Khoảng16 giờ cùng ngày, khi B đang đi trên đườngB, Phường H, thành phố Đ, Lâm Đồng, thấy B có biểu hiện nghi vấn nên Công an Phường 2, thành phố Đ tiến hành kiểm tra đối với B và B đã tự giác giao nộp 01 gói nilon, bên trong đựng chất ở dạng tinh thể màu trắng, B đang cất giấu trong túi quần đang mặc.

Tại Kết luận giám định số 1904/GĐ-PC09 ngày 15/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Mẫu chất ở dạng tinh thể đựng trong 01 gói nilon được niêm phong gởi giám định có khối lượng 0,2599 gam là chất Methamphetamine.Methamphetamine là chất ma túy, nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Võ Xuân B không thắc mắc hay khiếu nại gì đối với Kết luận của Cơ quan giám định nói trên và khai nhận vào trưa ngày 13/11/2018 bị cáo đã có hành vi nhận của một đối tượng tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) cho tại thành phố Đ, Lâm Đồng, sau đó tàng trữ để sử dụng và đến chiều cùng ngày, khi bị cáo đang tàng trữ số ma túy nói trên trong người thì bị Công an Phường 2, thành phố Đ, Lâm Đồng kiểm tra và bị cáo đã tự giác giao nộp với các hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản Cáo trạng.

Tại Cáo trạng số 15/CT-VKS ngày 30/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố Võ Xuân B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên tòa bị cáo Võ Xuân B đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai trong quá trình điều tra, không có nội dung gì thay đổi, hành vi của bị cáo tàng trữ 0,2599 gam chất Methamphetamine, là chất ma túy, có đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm r, s khoản 1 điều 51 và điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Võ Xuân B từ 15 đến 18 tháng tù. Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo qui định của pháp luật.

Bị cáo không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo Võ Xuân B: Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép các chất ma túy, trong đó có chất Methamphetamine, một loại ma túy tổng hợp là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện việc tàng trữ 0,2599 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo Võ Xuân B đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm đối với bị cáo được qui định tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo tàng trữ ma túy với khối lượng 0,2599 gam Methamphetamine. Không thuộc tình tiết định khung tăng nặng nào được quiđịnh tại điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 nên bị cáo chỉ bị xét xử kheo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo là người mới chấp hành xong hình phạt tù về tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”, là tội đặc biệt nghiêm trọng vào ngày 26/02/2016, chưa được xóa án tích, lại tiếp tục có hành vi phạm tội. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt theo qui định tại điểm h khoản 1 điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo đã tự giác giao nộp vật chứng khi bị Công an Phường 2, thành phố Đ, Lâm Đồng nghi ngờ và kiểm tra. Sau khi bị bắt, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt qui định tại điểm r và điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về áp dụng hình phạt bổ sung: Xét hiện không xác định được bị cáo có thu nhập gì từ việc Tàng trữ trái phép chất ma túy nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Các loại vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm có: Hai phong bì đã được niêm phong, trong đựng vật chứng còn lại sau giám định và bao gói vật chứng trước khi giám định, xét không có giá trị sử dụng nên tịch thu để tiêu hủy. Một điện thoại di động hiệu Nokia có 02 số Imei là: 35687507487926 và số 356875074857934, vỏ màu đen, đã qua sử dụng, bên trong có gắn sim card số 0334478024 là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] . Tuyên bố bị cáo Võ Xuân B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] . Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm r, s khoản 1 điều 51 và điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Võ Xuân B 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/11/2018.

[3]. Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

+ Tịch thu để tiêu hủy: 02 phong bì đã niêm phong đựng vật chứng còn lại sau giám định và bao gói vật chứng trước khi giám định.

+ Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Nokia, vỏ màu đen, đã qua sử dụng có 02 số Imei là: 35687507487926 và số 356875074857934, bên trong có gắn sim card số 0334478024.

(Các vật chứng có đặc điểm cụ thể như mô tả tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/01/2019 giữa Công an thành phố Đ và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ).

[4]. Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về lệ phí, án phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HSST ngày 27/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về