Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 24/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 106/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo quyết đinh đưa vụ án ra xét xử số: 25/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hồ Thị B - Sinh năm 1988

Địa chỉ: Thôn K, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H - Sinh năm 1987

Địa chỉ: Thôn K, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá

Hiện đang chấp hành án tại Trại giam số 3 - Bộ Công an

Tại phiên toà có mặt chị B, vắng mặt anh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 14/6/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Hồ Thị B trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có tổ chức cưới và được UBND xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 02/02/2009. Sau khi cưới vợ chồng sống hạnh phúc bình thường đến tháng 02/2011 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, anh H nghiện ma tuý đòi hỏi tiền và chị không cho nên vợ chồng cãi nhau. Vào tháng 4 năm 2011 anh H phạm tội trộm cắp tài sản và cướp giật tài sản, bị xử phạt 15 năm 06 tháng tù. Chị có vào thăm anh trong tù, do cuộc sống không còn tình cảm nên tháng 8/2018 chị vào gặp anh H đề nghị được ly hôn sau đó chị lại thôi và gần đây nhất trước khi khởi kiện chị có vào gặp và thông báo cho anh việc chị xin ly hôn. Do vợ chồng ly thân đã lâu, anh H không thể có trách nhiệm với gia đình và xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin được ly hôn với anh H

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu:

+ Nguyễn Gia Ba - Sinh ngày: 19/02/2011;

+ Nguyễn Thị Huyền Th - Sinh ngày: 25/4/2014.

Hiện nay các cháu khỏe mạnh bình thường và đang ở với chị. Ly hôn nguyện vọng của chị là được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu và không đề nghị anh H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ti bản tự khai ngày 25/6/2019 bị đơn là anh Nguyễn Văn H trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Hồ Thị B kết hôn tự nguyện vào ngày 02/02/3009 và được Uỷ ban nhân dân xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh một số mâu thuẫn nhỏ, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, không tin tưởng lẫn nhau. Vào tháng 4/2011 anh phải chấp hành án tại Trại giam số 3 - Bộ Công an, từ thời gian chấp hành án đến nay, anh và chị B có liên lạc với nhau, chị B có lên trại để thăm nuôi anh. Nay chị B yêu cầu ly hôn, anh xét thấy mâu thuẫn của vợ chồng chưa đến mức trầm trọng anh đang còn tình cảm với chị B, anh mong chị suy nghĩ lại và cho anh cơ hội, anh sẽ cố gắng chấp hành án tốt để sớm trở về đoàn tụ với gia đình, anh không đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu: Nguyễn Gia Ba - Sinh ngày: 19/02/2011 và Nguyễn Thị Huyền Th - Sinh ngày 25/4/2014. Hiên nay anh đang phải chấp hành án, nếu chị B vẫn cương quyết ly hôn và có nguyện vọng nuôi cả 2 con thì anh đồng ý vì anh đang chấp hành án nên không thể cấp dưỡng nuôi con được.

- Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do anh đang chấp hành án, nên anh đề nghị Tòa án không tiến hành việc tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, anh không thể đến Tòa án để thực hiện các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật, nên anh đề nghị Tòa án xét xử sơ thẩm vụ án vắng mặt anh.

Do chị B và anh H có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Tại phiên Toà, Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn của chị B, xử cho ly hôn giữa chị B và anh H, về con chung giao cháu Nguyễn Gia Ba và cháu Nguyễn Thị Huyền Th cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị B.

Tại phiên tòa hôm nay chị B giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên không thỏa thuận với nhau về giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Văn H không có mặt tại phiên tòa và có đề nghị xin xét xử vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 BLTTDS xét xử vắng mặt anh H.

[2] Về hôn nhân: Chị Hồ Thị B và anh Nguyễn Văn H kết hôn với nhau năm 2009 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Chị B và anh H đều thừa nhận vợ chồng chung sống hạnh phúc chỉ được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống và từ tháng 4/2011 anh H phạm tội phải đi chấp hành án 15 năm 6 tháng tù. Chị B xin được ly hôn, anh H xin được đoàn tụ và mong chị B suy nghĩ lại, cho anh có cơ hội và cố gắng chấp hành án tốt để sớm được trở về với gia đình. Chị B cho rằng anh H bị nghiện ma túy nên xảy ra cải nhau, chị có vào thăm anh nH là để thông báo việc xin ly hôn. Vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2011 cho đến nay.

Như vậy, anh chị thừa nhận quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, do anh H chơi bời, nghiện ma túy và phạm tội phải đi chấp hành án.

Xét thấy, chị B thực sự không còn tình cảm với anh H, anh chị đã có thời gian dài sống ly thân, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau, thời gian chấp hành án của anh H dài nên không thể chăm sóc và xây dựng hạnh phúc gia đình được. Đến nay chị B vẫn tha thiết xin ly hôn, với lý do vợ chồng sống ly thân đã lâu, anh H không thể có trách nhiệm với gia đình, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được.

Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nH ở đây chị B đã thực sự không còn tình cảm với anh H. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó cải thiện được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị và căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị B được ly hôn anh H là phù hợp.

[2] Về con: Vợ chồng có 02 con chung là cháu: Nguyễn Gia Ba - Sinh ngày: 19/02/2011 và Nguyễn Thị Huyền Th - Sinh ngày 25/4/2014. Hiện nay cháu khỏe mạnh bình thường và đang ở với chị B. Nguyện vọng của chị B là xin được trực tiếp nuôi dưỡng 02 cháu và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Nguyện vọng của anh H là nếu chị B vẫn cương quyết ly hôn và có nguyện vọng nuôi cả 2 con thì anh đồng ý vì anh đang chấp hành án nên không thể cấp dưỡng nuôi con được.

Xét thấy nguyện vọng được nuôi con của chị B và anh H cũng đồng ý giao cả hai con cho chị B nuôi là hoàn toàn chính đáng. Bởi từ khi anh đi chấp hành án, các cháu vẫn ở với chị và chị chăm sóc tốt, anh hiện nay đang chấp hành án nên không thể có điều kiện chăm sóc các con được. Do vậy cần áp dụng Điều 81 và 82 Luật HNGĐ giao cháu Ba và cháu Th cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với tâm sinh lý và lợi ích của các cháu.

Chị B không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị và anh H cũng đề nghị không phải cấp dưỡng nuôi con vì hiện nay anh không có điều kiện cấp dưỡng. Xét thấy việc chị đề nghị là tự nguyện và anh H đang phải chấp hành án, nên anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị B.

[4] Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Hồ Thị B là nguyên đơn trong vụ án nên buộc chị B phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 228, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Hồ Thị B và anh Nguyễn Văn H.

2. Về nuôi con chung: Công nhận vợ chồng có 02 con chung là cháu:

+ Nguyễn Gia Ba - Sinh ngày 19 tháng 02 năm 2011;

+ Nguyễn Thị Huyền Th - Sinh ngày 25 tháng 4 năm 2014.

2.1. Giao con chung Nguyễn Gia Ba và Nguyễn Thị Huyền Th cho chị Hồ Thị B trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Anh Nguyễn Văn H không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị B.

2.3. Anh H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản: Chị B và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Hồ Thị B phải chịu 300.000đ tin án phí dân sự sơ thẩm, nH được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0000458 ngày 14/6/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị B đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6; 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, đối với chị B kể từ ngày tuyên án, đối với anh H kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:24/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về