Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 24/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã D xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1195/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số: 21/2019/QĐST-HNGĐ ngày 02/4/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bích N, sinh năm 1983; thường trú: Số 52/9 khu phố T, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Đoàn Hữu V, sinh năm 1975; thường trú: Số 52/9 khu phố T, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Bích N và anh Đoàn Hữu V sau thời gian tự nguyện tìm hiểu nhau khoảng 02 năm thì tiến đến hôn nhân sống chung từ năm 2002, đến năm 2003 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 346, quyển số 02/2003, cấp ngày 28/11/2003. Thời gian đầu vợ chồng chung sống tại Thành phố Hồ Chí Minh, đến năm 2010 thì chuyển về D, Bình Dương sinh sống cho đến nay. Vợ chồng sống hạnh phúc đến khoảng năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân do tính tình không hợp không tìm được tiếng nói chung, luôn bất hòa, bị đơn sống không có trách nhiệm với gia đình, không quan tâm đến vợ con, không phụ giúp nguyên đơn về mặt kinh tế. Tình trạng trên đã kéo dài, tuy nhiên vì con nhỏ nên nguyên đơn cố chịu đựng để xây dựng gia đình nhưng không có kết quả. Mặc dù vợ chồng sống chung nhà nhưng không ngủ chung với nhau từ năm 2014 cho đến nay. Nguyên đơn xác định vợ chồng không còn tình cảm nên yêu cầu ly hôn với bị đơn.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có một con chung tên Đoàn Gia H, sinh ngày 22/02/2004, đang ở cùng cha mẹ. Nguyên đơn yêu cầu giao con chung cho bị đơn trực tiếp nuôi, nguyên đơn tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn đã được Toà án thông báo tham gia tố tụng, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng không đến Toà án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố nào, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:

Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa sơ thẩm Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Về hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống không hạnh phúc do mâu thuẫn kéo dài, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó việc nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn và yêu cầu giải quyết về con chung là có cơ sở chấp nhận. Về tài sản chung và nợ chung nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Đoàn Hữu V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào các ngày 02/4/2019 và ngày 19/4/2019 nhưng anh Đoàn Hữu V vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Đoàn Hữu V.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Bích N và anh Đoàn Hữu V tự nguyện sống chung với nhau vào năm 2002, đến năm 2003 đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện B, thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 346, quyển số 02/2003, cấp ngày 28/11/2003 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

[2.2] Nguyên đơn xác định quá trình chung sống với bị đơn vợ chồng không hạnh phúc, xảy ra nhiều mâu thuẫn do bị đơn sống không có trách nhiệm với gia đình, không phụ giúp nguyên đơn về mặt kinh tế, cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, không tìm được tiếng nói chung, không ai quan tâm đến ai làm cho cuộc sống gia đình ngột ngạt nên nguyên đơn không còn tình cảm yêu thương bị đơn. Tuy nguyên đơn, bị đơn vẫn sống chung một nhà nhưng không ngủ chung từ năm 2014 đến nay. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập anh V đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh V không có mặt. Điều này chứng tỏ tình cảm vợ chồng của bị đơn đối với nguyên đơn thực sự không còn và cả hai bên đều không muốn hàn gắn.

[2.3] Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Việc bị đơn không quan tâm đến hòa giải đoàn tụ để hàn gắn quan hệ hôn nhân với nguyên đơn cho thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có cơ sở chấp nhận.

[2.4] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Bích N và anh Đoàn Hữu V có một người con chung tên Đoàn Gia H, sinh ngày 22/02/2004, hiện đang sống cùng cha mẹ. Nguyên đơn hiện đang làm công việc tự do, nhận gia công đồ, thu nhập khoảng 6.000.000 đồng/tháng; còn bị đơn làm tài xế không rõ thu nhập bao nhiêu. Vì vậy nguyên đơn yêu cầu giao con chung cho bị đơn trực tiếp nuôi, nguyên đơn tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng. Trong suốt quá trình tố tụng mặc dù đã được Tòa án niêm yết các văn bản có nêu rõ yêu cầu của nguyên đơn về vấn đề này cho bị đơn nhưng không có ý kiến phản đối gì; mặt khác việc yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp với nguyện vọng của con chung. Xét thấy cháu Đoàn Gia H là bé trai, trong thời gian qua sống cùng cha mẹ vẫn phát triển tốt. Do đó, Tòa án chấp nhận yêu cầu giao con chung cho bị đơn nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Đồng thời ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn về việc cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng.

[2.5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[2.6] Từ những phân tích nêu trên, Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

[2.7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, 238, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 51, 56, 58 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích N.

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Bích N được ly hôn với anh Đoàn Hữu V

(Theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 346, quyển số 02/2003, cấp ngày 28/11/2003 của Ủy ban nhân dân xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh).

2. Về con chung: Giao người con chung tên Đoàn Gia H, sinh ngày 22/02/2004 cho anh Đoàn Hữu V trực tiếp nuôi dưỡng.

Chị Nguyễn Thị Bích N thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Thời hạn cấp dưỡng kể từ khi Bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày người được yêu cầu thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Sau ly hôn, chị Nguyễn Thị Bích N và anh Đoàn Hữu V có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp chị Nguyễn Thị Bích N lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc anh Đoàn Hữu V nuôi con thì anh V có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của chị N theo quy định của pháp luật. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Nguyễn Thị Bích N không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Bích N phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí về ly hôn được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0020477 ngày 04/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh Bình Dương. Chị Nguyễn Thị Bích N phải nộp thêm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí.

5. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:24/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về