TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 24/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, GIAO CON KHI LY HÔN
Ngày 16/8/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 134/2019/TLST-HNGĐ ngày 30/5/2019 về việc “Tranh chấp về ly hôn, giao con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/8/2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị H.
Địa chỉ: Thôn 7, xã Đ, thành phố L, tỉnh Lào Cai, có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Mạnh H, Luật sư Văn phòng Luật sư Hùng Minh, có mặt.
2. Bị đơn: Anh Lương Thanh S.
Địa chỉ: Thôn 7, xã Đ, thành phố L, tỉnh Lào Cai, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 5 năm 2019 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn trình bày:
Chị Trần Thị H và anh Lương Thanh S đăng ký kết hôn vào năm 1998 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Yên Bái trên cơ sở tự nguyện, có sự tìm hiểu. Sau khi kết hôn được khoảng vài năm thì nảy sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng thường xảy ra cãi vã, không quan tâm đến nhau. Hiện tại vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2017. Xét thấy cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc nên chị H đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho vợ chồng được ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng chị H có 02 con chung là cháu Lương Thị Thanh H sinh năm 1999, hiện tại cháu đã trưởng thành và sống tự lập. Cháu thứ 2 tên là Lương Thanh D, sinh ngày 17/3/2011 hiện đang ở với chị H và bản thân cháu D có nguyện vọng muốn ở với mẹ. Do vậy chị H đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu D cho chị nuôi dưỡng và không yêu cầu anh Sơn phải cấp dưỡng nuôi cháu D.
Về tài sản: Chị H không yêu cầu giải quyết.
Bị đơn là anh Lương Thanh S trình bày:
Về thời gian, địa điểm, điều kiện kết hôn như chị H trình bày là đúng.
Quá trình chung sống, vợ chồng không có hạnh phúc, chị H có biểu hiện không chung thủy nên anh S nhất trí ly hôn, không đề nghị giải quyết về việc chia tài sản.
Về con chung: Anh S xác nhận chị H trình bày như trên là đúng.
Nếu ly hôn, anh S có nguyện vọng xin được nuôi cháu Lương Thanh D vì hiện tại anh là lái xe của Công ty TNHH Hồng Lộc, mức thu nhập hàng tháng khoảng 15 triệu đồng.
Tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Trần Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp cho nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao cháu Lương Thanh D cho chị H nuôi dưỡng, bởi lẽ chị H là người có sức khỏe, có thu nhập hàng tháng từ 8 - 9 triệu đồng, có điều kiện chăm sóc, dạy dỗ cháu. Trong khi anh S là lái xe thường hay phải đi làm xa nhà nên không thuận tiện cho việc trông nom, nuôi dạy con. Mặt khác việc giao con cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của cháu D mà cháu đã trình bày trong quá trình chuẩn bị xét xử.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.
Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị H và anh Lương Thanh S tự nguyện đăng ký kết hôn vào năm 1998 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Yên Bái. Việc kết hôn của hai bên đều tuân thủ các điều kiện kết hôn theo luật định, do vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Hai người chung sống với nhau được vài năm thì nảy sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm về lối sống nên thường hay xảy ra cãi vã. Vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2017 đến nay, sự việc này đều được 2 bên xác nhận là đúng và cả hai đều có nguyện vọng được ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị H, công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Trần Thị H và anh Lương Thanh S.
[2]. Về con chung, giao con khi ly hôn:
Chị Trần Thị H và anh Lương Thanh S đều xác nhận có 02 người con chung là cháu Lương Thị Thanh H sinh năm 1999 và cháu Lương Thanh D sinh ngày 17/3/2011. Hiện tại cháu H đã thành niên và sống tự lập do vậy không đề cập giải quyết. Đối với cháu Lương Thanh D, trong quá trình chuẩn bị xét xử, cháu D có nguyện vọng muốn ở với mẹ và Tòa án đã ghi nhận ý kiến của cháu. Xét yêu cầu của chị Trần Thị H và điều kiện cụ thể của hai bên, Hội đồng xét xử thấy rằng cần giao cháu Lương Thanh D cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bởi lẽ chị H là người có sức khỏe, có thu nhập ổn định hàng tháng từ 6 – 9 triệu đồng, được chính quyền địa phương xác nhận. Trong khi anh S là lái xe, thường xuyên phải đi làm ở các công trình nên việc chăm sóc, nuôi dạy con chung không được thuận tiện. Mặt khác việc giao cháu D cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của cháu. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu về giao con khi ly hôn của chị H và người bảo vệ quyền lợi cho chị H. Về cấp dưỡng, Tòa án đã giải thích về vấn đề này, tuy nhiên các đương sự đều không yêu cầu do vậy không xem xét giải quyết.
[3]. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[4]. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Buộc chị Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các điều 55, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị H.
Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự tự nguyện ly hôn giữa chị Trần Thị H và anh Lương Thanh S.
Về con chung: Giao cháu Lương Thanh D, sinh ngày 17/3/2011 cho chị Trần Thị H chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Tạm thời anh Lương Thanh S chưa phải cấp dưỡng nuôi con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Xác nhận chị Trần Thị H đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006079 ngày 30 tháng 5 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lào Cai. Chị Trần Thị H đã nộp đủ án phí.
Án xử công khai, sơ thẩm. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về tranh chấp ly hôn, giao con khi ly hôn
Số hiệu: | 24/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về