TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH B GIANG
BẢN ÁN 24/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Ngày 08 tháng 8 năm 2019, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Hiệp Hoà, tỉnh B Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 127/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2019/QĐXX-ST ngày 09 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lưu Thị Bích T, sinh năm 1983 (có mặt).
Địa chỉ: số nhà 68, tổ 5, khu T, thị trấn X, huyện C, thành phố H.
- Bị đơn: Anh Chu Văn B, sinh năm 1980 (có mặt).
Địa chỉ: thôn T, xã M, huyện H, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn ngày 02/5/2019, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn (chị Lưu Thị Bích T) trình bày: Chị và anh Chu Văn B kết hôn có được tự do, tự nguyện tìm hiểu, thỏa thuận và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn X, huyện C, thành phố H ngày 24/10/2006. Sau khi kết hôn, chị về nhà anh B làm dâu ngay và sống chung cùng gia đình, đến năm 2011 thì vợ chồng ra ở giêng. Quá trình chung sống, tình cảm vợ chồng ban đầu bình thường, hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, anh B hay chơi bời không tu chí làm ăn và hay đánh đập chửi bới chị. Chị và anh B đã sống ly thân từ tháng 11 năm 2018 đến nay và đã cắt đứt quan hệ tình cảm không còn quan tâm đến nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng với anh B không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh B.
Bị đơn (anh Chu Văn B) trình bày: Anh và chị Lưu Thị Bích T kết hôn có được tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn X, huyện C, thành phố H như chị T trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, chị T về nhà anh làm dâu ngay và sống chung cùng gia đình một thời gian sau đó vợ chồng thuê phòng trọng ra ở giêng. Thời gian vợ chồng sống hạnh phúc từ khi kết hôn đến tháng 11 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân anh xác định là do kinh tế gia đình khó khăn nên vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn cãi cọ nhau. Anh và chị T đã sống ly thân từ tháng 11 năm 2018 đến nay và đã cắt đứt quan hệ tình cảm không còn quan tâm đến nhau. Nay mặc dù chị T có đơn xin ly hôn nhưng anh xác định tình cảm vợ chồng với chị T vẫn còn nên anh không đồng ý ly hôn với chị T, anh xin về đoàn tụ để vợ chồng cùng nuôi dạy con cái. Trường hợp chị T cương quyết xin ly hôn anh xác định anh phải được nuôi hai con chung của vợ chồng thì anh mới đồng ý ly hôn với chị T.
Về con chung: Chị T và anh B đều xác định vợ chồng có 02 con chung là Chu Nhật M, sinh ngày 15/5/2007 và Chu Thị Diễm Q, sinh ngày 23/5/2014, hiện cả hai cháu đang ở với anh B và đều phát triển bình thường. Trường hợp vợ chồng ly hôn, chị T đề nghị Tòa án giải quyết để chị nuôi cháu Q, anh B nuôi cháu M, anh B đề nghị được nuôi cả hai con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chị T, anh B đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác, công sức và các quan hệ khác: Chị T và anh B đều xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến và xác định về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử;
việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật.
Về đường lối giải quyết vụ án: đại diện VKS đề nghị HĐXX áp dụng: Điều 51, Điều 56 , Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình; Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử: Về quan hệ hôn nhân: Chị Lưu Thị Bích T được ly hôn anh Chu Văn B.
Về con chung: Giao chị Lưu Thị Bích T trực tiếp nuôi Chu Thị Thị Diễm Q, sinh ngày 23/5/2014, anh Chu Văn B trực tiếp nuôi Chu Nhật M, sinh ngày 15/5/2007. Anh B, chị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau cho đến khi đương sự có yêu cầu. Anh B, chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về án phí: Chị Lưu Thị Bích T phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0000157 ngày 14/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa. Xác nhận chị T đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Căn cứ đơn khởi kiện đề ngày 02/5/2019 của chị Lưu Thị Bích T đây xác định là quan hệ tranh chấp hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ tranh chấp: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[2]. 1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lưu Thị Bích T và anh Chu Văn B kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận và có đăng ký kết hôn tại UBND cấp xã được xác định là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.
[2]. 2. Xét yêu cầu về việc xin ly hôn của chị T thấy rằng: Qua các chứng cứ do các bên xuất trình, lời khai của người làm chứng được biết: Vợ chồng chị T, anh B từ khi kết hôn đã có thời gian chung sống hạnh phúc nhưng tình cảm vợ chồng đã không duy trì phát triển được và sớm phát sinh mâu thuẫn. Xuất phát từ việc hai vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm, anh B không thường xuyên quan tâm đến vợ, con nên vợ chồng hay cãi chửi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng do vậy từ tháng 11 năm 2018 chị T và anh B đã sống ly thân cho đến nay và đã cắt đứt quan hệ tình cảm, không còn quan tâm đến nhau. Mặc dù việc chị T có đơn xin ly hôn, anh B không đồng ý do xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn anh xin về đoàn tụ nhưng anh cũng xác định từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay hai bên không còn quan hệ qua lại tình cảm và quan tâm gì đến nhau nữa, anh B cũng không đưa ra được biện pháp gì để cải thiện tình cảm vợ chồng. Qua trao đổi địa phương cung cấp chị T và anh B do bất đồng quan điểm, không hợp nhau cho nên vợ chồng hay cãi nhau, địa phương xác định mâu thuẫn giữa chị T và anh B đã trở lên trầm trọng. Chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh B đã phát triển trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng điều 56 Luật hôn nhân gia đình để giải quyết cho chị T được ly hôn anh B là phù hợp, cho nên yêu cầu xin ly hôn của chị T cần được chấp nhận.
[2]. 3. Xét yêu cầu về việc nuôi con chung của hai bên thấy rằng: Chị T và anh B đều xác định vợ chồng có 02 con chung là Chu Nhật M, sinh ngày 15/5/2007 và Chu Thị Diễm Q, sinh ngày 23/5/2014, hiện cả hai cháu đang ở với anh B và đều phát triển bình thường. Trường hợp vợ chồng ly hôn, chị T đề nghị Tòa án giải quyết để chị nuôi cháu Q, anh B nuôi cháu M, anh B đề nghị được nuôi cả hai con chung của vợ chồng. Qua trao đổi với địa phương xác định chị T và anh B hiện đều có công ăn việc làm và có thu nhập, có điều kiện kinh tế để nuôi con, tuy nhiên hiện nay cháu Q đang còn nhỏ nên cần sự chăm sóc của người mẹ nhiều hơn. Hội đồng xét xử xét thấy, cả anh B và chị T đều đề nghị được nuôi con chung của vợ chồng, điều kiện nuôi con của hai bên đều có đủ điều kiện. Vì vậy, cần giao cho chị T và anh B mỗi người nuôi dưỡng một con chung của vợ chồng là phù hợp, để các cháu có đủ điều kiện phát triển toàn diện tốt nhất. Hiện nay cháu Chu Thị Diễm Q tuổi còn nhỏ nên cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ nhiều hơn. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của đứa trẻ cần giao cháu Chu Thị Diễm Q, sinh ngày 23/5/2014 cho chị T nuôi dưỡng, anh B nuôi cháu Chu Nhật M, sinh ngày 15/5/2007 là phù hợp với quy định tại các điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân gia đình. Cho nên đề nghị được nuôi con chung của chị T cần được chấp nhận, không chấp nhận đề nghị của anh B về việc đề nghị được nuôi cả hai con chung của vợ chồng. Anh B, chị T được quyền đi lại thăm nom con mà không ai được cản trở.
[2]. 4. Xét yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con của hai bên thấy rằng: Tại Tòa án cũng như tại phiên tòa hôm nay, cả chị T và anh B đều xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết xét thấy là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên cần được chấp nhận.
[2]. 5. Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác, công sức và các quan hệ khác: chị T và anh B đều xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết cho nên không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 51, Điều 56 , Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình; Điều 28, Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Xử:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Lưu Thị Bích T được ly hôn anh Chu Văn B.
Về con chung: Giao chị Lưu Thị Bích T trực tiếp nuôi cháu Chu Thị Diễm Q, sinh ngày 23/5/2014, anh Chu Văn B trực tiếp nuôi cháu Chu Nhật M, sinh ngày 15/5/2007. Anh B, chị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau cho đến khi đương sự có yêu cầu. Anh B, chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Về án phí: Chị Lưu Thị Bích T phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0000157 ngày 14/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa. Xác nhận chị T đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Báo cho đương sự có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về hôn nhân gia đình
Số hiệu: | 24/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về