Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 08/04/2019 về ly hôn giữa chị N và anh D

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ R G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 24/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/04/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ N VÀ ANH D

Ngày 08 tháng 4 năm 2019, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân thành phố R G xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 356/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2018, về việc: “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Cẩm N, sinh năm 1996; Địa chỉ cư trú: số 197/8, đường Q T, phường V Q, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt).

2. Bị đơn: Anh Dương Ngọc D, sinh năm 1992; Địa chỉ cư trú: số 41/5, đường N T, phường V Q, thành phố R G, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 07/9/2018 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Nguyễn Thị Cẩm N trình bày: Chị N và anh D tự tìm hiểu quen nhau khoảng 01 năm, đi đến tổ chức lễ cưới vào năm 2012, có đăng ký kết hôn trễ hạn tại UBND phường V Q, thành phố R G và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 07/7/2014.

Lý do chị N yêu cầu xin ly hôn: Chị N cho rằng do quá trình chung sống tính tình đôi bên không hợp nhau, bất đồng quan điểm, bất đồng ý kiến trong cách cư xử, sinh hoạt hàng ngày; do anh D không lo làm ăn, phụ giúp gia đình mà thường xuyên ăn nhậu rồi về kiếm chuyện đánh đập, xúc phạm đến chị N. Chị N đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh D vẫn không thay đổi, sự cố gắng nhẫn nhịn của chị N không mang lại kết quả mà mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Thấy chung sống không hạnh phúc nên đôi bên đã tự ly thân với nhau từ tháng 09/2018 cho đến nay. Nhận thấy, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị N yêu cầu được ly hôn với anh D.

Về con chung: Chị N xác nhận xác nhận có 01 người con tên Dương Ngọc D1, sinh ngày 19/12/2012, hiện đang sống chung với chị N.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị N xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa chị N yêu cầu:

Về hôn nhân: Chị N yêu cầu được ly hôn với anh D.

Về con chung: Chị N yêu cầu được nuôi người con tên Dương Ngọc D1, sinh ngày 19/12/2012. Chị N không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị N xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án có triệu tập anh D để hòa giải hôn nhân và gia đình, nhưng anh D vắng mặt, nên Tòa án đưa vụ kiện ra xét xử theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Toà án đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự như: Thông báo thụ lý; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa; Giấy báo phiên toà hợp lệ, nhưng anh D cố tình lánh mặt không đến toà án. Tại phiên tòa nguyên đơn đồng ý xét xử vắng mặt bị đơn. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thống nhất xử vắng mặt bị đơn anh Dương Ngọc D.

[2] Nhận định về quan hệ hôn nhân: Tại phiên tòa chị N xác nhận, chị N và anh D tự nguyện quen nhau khoảng 01 năm, đi đến tổ chức lễ cưới vào năm 2012, có đăng ký kết hôn trễ hạn và được UBND phường V Q, thành phố R G cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 07/7/2014, đây là hôn nhân hợp pháp.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị N, Hội đồng xét xử xét thấy: Vợ chồng chị N, anh D không còn thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau để cùng xây dựng mái ấm gia đình bền vững và hạnh phúc: Xuất phát từ việc tính tình đôi bên không hòa hợp, bất đồng quan điểm, bất đồng ý kiến; vợ chồng không còn tin tưởng, thông cảm, quan tâm và chia sẻ với nhau trong cuộc sống. Quá trình giải quyết vụ kiện, Tòa án đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật nhưng anh D cố tình lánh mặt không đến Tòa án, không có văn bản thể hiện ý kiến, điều đó cho thấy anh D cũng không có thiện chí và mong muốn trong việc hàn gắn tình cảm với chị N. Tại phiên tòa, chị N thể hiện rõ quan điểm muốn ly hôn, không muốn đoàn tụ; Chị N và anh D cũng đã ly thân với nhau từ tháng 09/2018 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh D đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Trong phần nghị án Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N được ly hôn với anh D.

[4] Về con chung: Chị N xác nhận vợ chồng có 01 người con chung tên Dương Ngọc D1, sinh ngày 19/12/2012.

Xét thấy, hiện người con tên Dương Ngọc D1 do chị N đang trực tiếp nuôi dưỡng; quá trình trông nom, nuôi dưỡng chị N đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của người mẹ đối với con; đảm bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của con. Vì vậy, để đảm bảo môi trường sống, sự phát triển, quyền lợi mọi mặt của con. Trong phần nghị án Hội đồng xét xử thống nhất: Giao người con chung tên Dương Ngọc D1, sinh ngày 19/12/2012 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp. Do chị N không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị N xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Tòa án có triệu tập anh Dương Ngọc D để hòa giải hôn nhân và gia đình, nhưng anh D cố tình lánh mặt không đến Tòa án, không có văn bản thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị N. Trường hợp anh D có tranh chấp về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng thì sẽ khởi kiện thành vụ kiện khác.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị N phải chịu án phí số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 28; khoản 4 Điều 147; Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Cẩm N và anh Dương Ngọc D.

2. Về con chung: Có 01 người con chung tên Dương Ngọc D1, sinh ngày 19/12/2012.

Giao người con tên Dương Ngọc D1, sinh ngày 19/12/2012 cho chị Nguyễn Thị Cẩm N trực tiếp nuôi dưỡng. Chị N không yêu cầu anh Dcấp dưỡng nuôi con.

Anh D được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị N xác nhận không có, Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm ly hôn: Chị N phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng). Chị N đã tạm nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 0008548, ngày 17/10/2018 tại chi cục Thi hành án Dân sự thành phố R G, nên chị N được khấu trừ.

5. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

339
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 08/04/2019 về ly hôn giữa chị N và anh D

Số hiệu:24/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về