Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 04/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 24/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 04 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 44/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2019 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2019/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 51/2019/QĐST-DS ngày 18/6/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Văn H, sinh năm 1973; địa chỉ: Số 261, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đ. (Có mặt).

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1977; địa chỉ: Số 261, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đ. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên tòa anh H là nguyên đơn trình bày:

Anh H và chị T có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 20/8/1997. Vợ chồng chung sống đến tháng 4/2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị T thiếu nợ mà anh H không biết lý do, anh H phải đưa tiền cho chị T trả nợ, vợ chồng cự cãi thì chị T bỏ đi từ tháng 4/2017 đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn nên anh H yêu cầu xin ly hôn với chị T. Về nuôi con chung: Quá trình sống chung, anh H và chị T có 02 con chung tên Trần Văn H, sinh ngày 06/01/2003 và Trần Thị Ngọc H, sinh ngày 26/7/2000, anh H yêu cầu tiếp tục nuôi con Trần Văn Hải, sinh ngày 06/01/2003, hiện đang sống với anh H, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi. Đối với Trần Thị Ngọc Hà, sinh ngày 26/7/2000 đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về chia tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Trong biên bản hòa giải của Tòa án chị T là bị đơn trình bày: Chị T thống nhất với lời trình bày của anh H về thời gian kết hôn, việc đăng ký kết hôn, thời gian ly thân và nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, con chung. Chị T yêu cầu anh H cho chị T hai năm thì chị T đồng ý ly hôn để con lập gia đình xong hết. Nay chị T không đồng ý ly hôn với anh H vì còn thương chồng, thương con. Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu của anh H thì chị T yêu cầu nuôi con Trần Văn H, sinh ngày 06/01/2003, hiện đang sống với anh H, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi. Đối với Trần Thị Ngọc H, sinh ngày 26/7/2000 đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về chia tài sản, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu:

+ Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật.

+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.

+ Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân thủ theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Cho anh H được ly hôn. Con chung tên Hải để anh H nuôi dưỡng, anh H không yêu cầu cấp dưỡng. Tài sản, nợ chung không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị T đang sinh sống tại huyện Lấp Vò nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò, theo quy định tại Điều 28; Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Chị T được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ 2 nhưng vắng mặt không lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị T theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân:

Anh H và chị T chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn, được Uỷ ban nhân dân xã Định Yên cấp giấy chứng nhận kết hôn nên hôn nhân giữa anh H và chị T là hôn nhân hợp pháp.

Anh H và chị T phát sinh mâu thuẫn và xa nhau từ tháng 4 năm 2017 đến nay. Quá trình chung sống có 02 con chung, nhưng khi điều kiện kinh tế sa sút, nợ nần, anh H và chị T không cùng nhau cố gắng, chia sẻ, vượt qua khó khăn mà mỗi người tự lo cuộc sống riêng. Chị T bỏ đi tự lo cho bản thân, không quan tâm, chăm sóc cho chồng con mà để một mình anh H gánh vác. Xét thấy, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc phải xuất phát từ sự tự nguyện, quan tâm, yêu thương, chăm sóc, chia sẻ cho nhau, phải cùng chung sống vượt qua khó khăn, xây dựng mái ấm gia đình. Nhưng anh H và chị T không làm được điều đó. Nay anh H xin ly hôn, chị T đồng ý ly hôn với điều kiện là để thêm 02 năm nữa để các con trưởng thành. Thế nhưng với tình trạng hôn nhân của anh H và chị T hiện nay đã vi phạm vào Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về tình nghĩa vợ chồng.

Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 19. Tình nghĩa vợ chồng

1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.”

Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”

Từ nhận định và điều luật viện dẫn trên, xét thấy hôn nhân giữa anh H và chị T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu xin ly hôn của anh H là có căn cứ.

Đề nghị của Kiểm sát viên cho ly hôn là phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử.

[2.2] Về nuôi con chung:

Quá trình sống chung, anh H và chị T có 02 con chung tên Trần Văn H, sinh ngày 06/01/2003 và Trần Thị Ngọc H, sinh ngày 26/7/2000, anh H yêu cầu tiếp tục nuôi con Trần Văn Hải, sinh ngày 06/01/2003, hiện đang sống với anh H, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi. Đối với Trần Thị Ngọc H, sinh ngày 26/7/2000 đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị T yêu cầu được nuôi con Trần Văn H, sinh ngày 06/01/2003, hiện đang sống với anh H, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi. Đối với Trần Thị Ngọc H, sinh ngày 26/7/2000 đã trưởng thành không yêu cầu giải quyết.

Xét thấy: Từ khi vợ chồng xa nhau thì con do anh H nuôi dưỡng, vẫn phát triển khỏe mạnh bình thường. Bé Hải cũng có văn bản thể hiện nguyện vọng được sống với cha. Do đó, Hội đồng xét xử giao con cho anh H tiếp tục nuôi là phù hợp. Do anh H không yêu cầu chị T cấp dưỡng nên không xem xét.

Chị T không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, anh H và các thành viên trong gia đình không được cản trở, theo quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về chia tài sản và nợ chung: Anh H và chị T không yêu cầu nên không xem xét.

[3] Về án phí: Anh H xin ly hôn nên phải nộp án phí sơ thẩm, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 19, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Trần Văn H.

Anh Trần Văn H được ly hôn với chị Nguyễn Thị Thanh T.

2. Về nuôi con chung:

Anh Trần Văn H được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Trần Văn H, sinh ngày 06/01/2003, hiện đang sống với anh Trần Văn H, anh Trần Văn H không yêu cầu chị Nguyễn Thị Thanh T cấp dưỡng nuôi con.

Chị Nguyễn Thị Thanh T được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Anh Trần Văn H và các thành viên trong gia đình không được cản trở chị Nguyễn Thị Thanh T thực hiện quyền này.

3. Về án phí:

Anh Trần Văn H phải nộp đủ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số BH/2017/0007046 ngày 18 tháng 02 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò. Anh Trần Văn H đã nộp đủ.

4. Án xử công khai. Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2019/HNGĐ-ST ngày 04/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:24/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về