Bản án 24/2017/HS-ST ngày 28/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 24/2017/HS-ST NGÀY 28/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 29/2017/HSST ngày 14 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo: Họ và tên: Đỗ Văn H (tên gọi khác: Chọt), sinh năm 1994; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Ấp 14, xã K, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau; Trình độ văn hóa 03/12; Nghề nghiệp: không nghề; Con ông Đỗ Văn T và bà Trương Thị T; Bị cáo chưa có vợ; Tiền án: 01 tiền án. Bản án số 02, ngày 07/01/2015 của Tòa án nhân dân huyện U Minh xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, ngày 22/7/2016 chấp hành xong; Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam vào ngày 26 tháng 5 năm 2017 cho đến nay (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại: Chị Huỳnh Thị H, sinh năm 1980 (vắng mặt)

Địa chỉ cư trú: Khóm 3, thị trấn, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Đỗ Văn H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh truy tố về hành vi phạm tội như sau: Vào ngày 04/11/2016, chị H đến nhà cha mẹ chồng ở ấp 14, xã Khánh Lâm để giữ nhà cùng với em chồng là Đỗ Văn H, do cha mẹ chồng đi thành phố Cần Thơ trị bệnh. Đến khoảng 11 giờ ngày 11/11/2016, chị H lên võng nhà sau nằm ngủ trưa. Lúc này Hải nảy sinh ý định trộm cắp tiền của chị H để mua thuốc hút, do hàng ngày Hải thấy chị H mua đồ thường đi vô giường ngủ lấy tiền nên đi vào giường ngủ của chị H lục tìm tiền để lấy trộm. Hải phát hiện 01 cái bóp (ví) có dây kéo để trong chiếc chiếu vắt trên thanh giường, Hải lấy bóp kiểm tra thì phát hiện trong bóp có 03 tờ tiền, 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và 02 tờ tiền mỗi tờ mệnh giá 200.000 đồng, Hải lấy bỏ vào túi quần Jean bên trái, sau đó tiếp tục kiểm tra bóp thì phát hiện 02 chiếc vòng và 01 sợi dây chuyền đều bằng vàng 18K, không rõ trọng lượng, Hải lấy bỏ vào túi quần chung với tiền và trong bóp không còn tài sản nào khác nên Hải bỏ bóp lại tại vị trí cũ. Sau khi trộm tiền và vàng của chị H xong, Hải đem vàng ra tiệm vàng Phú Ngọc bán được số tiền 2.300.000 đồng và một ít tiền lẻ không nhớ rõ là bao nhiêu.

Quá trình điều tra chị H trình bày: Khoảng 13 giờ ngày 11/11/2016 chị H phát hiện giường ngủ bị lục lấy mất cái bóp đựng tiền và vàng. Số tiền bị mất gồm 02 tờ mỗi tờ mệnh giá 500.000 đồng, 02 chiếc nhẫn vàng 18K trọng lượng mỗi chiếc 1,5 chỉ; 01 sợi dây chuyền vàng 18K trọng lượng 1,5 chỉ; 02 chiếc vòng đeo tay vàng 18K trọng lượng mỗi chiếc là 0,8 chỉ. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, chị đến Công an xã K trình báo.

Quá trình điều tra xác định vàng chị H mất mua đã lâu nên không còn hóa đơn. Việc chị H cất vàng và tiền trong bóp và để trong chiếc chiếu vắt trên thanh giường chỉ một mình chị H biết. Do đó, chị H khai mất 02 tờ tiền mỗi tờ mệnh giá 500.000 đồng, 02 chiếc nhẫn vàng 18K trọng lượng mỗi chiếc 1,5 chỉ không có căn cứ để xem xét.

Tại Bản kết luận số 57, ngày 29/12/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện U Minh, kết luận:

+ 02 nhẫn vàng 18 K trọng lượng 02 chỉ trị giá: 6.750.000 đồng.

+ 01 dây chuyền vàng 18 K trọng lượng 1,5 chỉ trị giá: 3.375.000 đồng.

+ 02 vòng đeo tay vàng 18 K trọng lượng 1,6 chỉ trị giá 3.600.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản 13.725.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản Đỗ Văn H trộm cắp của chị Huỳnh Thị Hoàng là 7.875.000 đồng.

Tang vật thu giữ: 01 cái bóp (ví) da, màu xám, hai bên phía ngoài bóp bằng vải màu vàng nâu có hoa văn, có hai dây kéo, có một quai xách bằng da màu xám. Kích thước của cái bóp dài 10cm, rộng 08cm.

Tại bản cáo trạng số: 29/KSĐT-TA ngày 13 tháng 9 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh truy tố Đỗ Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p, g khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Văn H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Chị H không yêu cầu nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điều 41 Bộ luật Hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Do giá trị cái bóp không lớn nên cần tịch thu tiêu hủy.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định cho bị cáo, bị cáo và bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Văn H khai nhận: Vào khoảng 11 giờ ngày 11/11/2016, tại ấp 14, xã Khánh Lâm, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau, bị cáo đã lấy trộm 03 tờ tiền, 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và 02 tờ tiền mỗi tờ mệnh giá 200.000 đồng, 02 chiếc vòng 1,6 chỉ vàng 18k và 01 sợi dây chuyền 1,5 chỉ vàng 18K.

Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra làm rõ tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định bị cáo Hải lợi dụng sự sơ hở của chị H nên đã có hành vi lén lút lấy trộm 03 tờ tiền, 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và 02 tờ tiền mỗi tờ mệnh giá 200.000 đồng, 02 chiếc vòng 1,6 chỉ vàng 18k và 01 sợi dây chuyền 1,5 chỉ vàng 18K, trị giá là 7.875.000 đồng, mục đích là bán để chi xài cá nhân. Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, đồng thời gây mất an ninh trật tự, gây tâm lý bất an cho những người dân ở địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này là tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 bộ luật hình sự. Do đó, cần thiết xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội, đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có đủ điều kiện học tập, lao động trở thành người công dân tốt và góp phần phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo vì trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thật thà khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị không lớn, các tình tiết giảm nhẹ nêu trên được quy định tại điểm p, điểm g khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Xét lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù là có cơ sở được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về trách nhiệm dân sự: Chị H không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình sự: Do cái bóp đã củ, giá trị không còn nên tịch thu tiêu hủy 01 cái bóp (ví) da, màu xám, hai bên phía ngoài bóp bằng vải màu vàng nâu có hoa văn, có hai dây kéo, có một quai xách bằng da màu xám. Kích thước của cái bóp dài 10cm, rộng 08cm.

Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải nộp theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn H (Chọt) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 138; Điều 33; điểm p, g khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: bị cáo Đỗ Văn H 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 26 tháng 5 năm 2017.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 cái bóp (ví) da, màu xám, hai bên phía ngoài bóp bằng vải màu vàng nâu có hoa văn, có hai dây kéo, có một quai xách bằng da màu xám. Kích thước của cái bóp dài 10cm, rộng 08cm.

Vật chứng nêu trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh, tỉnh Cà Mau quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản, ngày 13 tháng 9 năm 2017 giữa Công an huyện U Minh và Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh.

Về án phí:

Căn cứ: Khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự;

Áp dụng: Khoản 1, Điều 23 Nghị quyết án phí, lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Đỗ Văn H phải nộp 200.000 đồng, bị cáo có nghĩa vụ nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh, tỉnh Cà Mau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Bản án sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Huỳnh Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 24/2017/HS-ST ngày 28/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:24/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện U Minh - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về