Bản án 241/2018/HS-ST ngày 06/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 241/2018/HS-ST NGÀY 06/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 226/2018/TLST- HS ngày 08 tháng 8 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 247/2018/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2018, đối với bị cáo: 

Phan Huỳnh X, sinh năm 1990 tại tỉnh Bình Dương; Thường trú: khu phố N, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: Phụ xe; trình độ học vấn: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Phan Văn T, không rõ năm sinh và bà Huỳnh Thị Ngọc B, sinh năm 1969; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 13/5/2018, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Đào Ngọc T, sinh năm 1986; địa chỉ: khu phố T, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn R, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Huỳnh Văn Q, sinh năm 1977; địa chỉ: khu phố B, phường B, thị xã D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Huỳnh X là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, loại ma túy X sử dụng là chất Methamphetamine. Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên khoảng 22 giờ ngày 13/05/2018, X điện thoại cho tên P (chưa rõ nhân thân lai lịch) nhờ mua ma túy thì Phong hẹn gặp tại khu vực phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Sau khi điện thoại cho P, X điều khiển xe máy biển số 69N1–xx720 đến gặp P, X đưa cho P số tiền 250.000 đồng để mua ma túy, P nhận tiền và đi khoảng 15 phút thì đem 01 gói ma túy về đưa cho X. X lấy gói ma túy bỏ vào gói thuốc lá hiệu Jet và cất vào túi quần trước X đang mặc rồi điều khiển xe đi về. Khi X điều khiển xe máy đến gần ngã ba suối Lồ Ô thuộc phường Bình An, thị xã Dĩ An, thấy có giấu hiệu nghi vấn nên lực lượng tuần tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong túi quần của X có một gói thuốc lá hiệu Jet, bên trong gói thuốc có 01 gói nilon được hàn kín 02 đầu, X khai là ma túy đá, nên tiến hành lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang.

Căn cứ Kết luận giám định số 292/MT-PC54 ngày 21/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Chất màu trắng trong 01 gói nilon miệng kéo dính thu giữ của Phan Huỳnh X là ma túy, loại chất Methamphetamine, có trọng lượng 0,2053 gam.

Đối với đối tượng tên P mua ma túy cho X hiện chưa rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đang tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với xe máy 69N1–xx720 X sử dụng vào việc phạm tội là xe do X mượn của anh Đào Ngọc T, anh T không biết X sử dụng vào việc phạm tội nên đã trả lại cho anh T.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) bì thư đã niêm phong có trọng lượng sau giám định là 0,1488 gam; 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen; 01 sim điện thoại.

Tại cáo trạng số 234/CT–VKS ngày 07 tháng 8 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phan Huỳnh X về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, thay đổi tội danh nhẹ hơn so với quyết định truy tố từ “Tội vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 250 sang “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS và áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đề nghị xử phạt bị cáo Phan Huỳnh X mức án từ 12 tháng đến 16 tháng tù.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Phan Huỳnh X là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, loại ma túy Xuân dùng là Methamphetamine. Vào khoảng 22 giờ ngày 13/05/2018, X điện thoại cho tên P (chưa rõ nhân thân lai lịch) nhờ P mua ma túy. Sau đó, X điều khiển xe máy biển số 69N1–xx720 đến gặp P, X đưa cho P số tiền 250.000 đồng, P lấy tiền rồi đi khoảng 15 phút thì đem 01 gói ma túy về đưa cho X. X lấy gói ma túy bỏ vào gói thuốc lá hiệu Jet và bỏ vào túi quần trước X đang mặc rồi điều khiển xe đi về đến khu vực ngã ba suối Lồ Ô thuộc phường Bình An, thị xã Dĩ An thì bị lực lượng tuần tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đi tuần kiểm tra phát hiện bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang.

Theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

.......

c) Heroin, Cocaine, Methemphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

.......

Hành vi của bị cáo tàng trữ 01 gói ma túy là chất Methamphetamine, trọng lượng 0,1488 gam để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 234/CT–VKS ngày 07 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người lao động nghiện ma túy.

[7] Xử lý vật chứng:

- Xét sim điện thoại là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và số ma túy Methamphetamine, trọng lượng sau giám định là 0,1488 gam là vật cấm lưu thông, cần tịch thu tiêu hủy.

- Xét 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen là công cụ bị cáo sử dụng vài việc phạm tội nên cần tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với đối tượng tên P mua ma túy dùm cho X hiện chưa rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đang tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với xe máy 69N1–xx720 X sử dụng vào việc phạm tội, mượn của anh Đào Ngọc T, anh T không biết X sử dụng vào việc phạm tội nên đã trả lại cho chủ sở hữu; Hội Đồng xét xử không xem xét.

Quan điểm và đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy  định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phan Huỳnh X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phan Huỳnh X 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/5/2018.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 sim điện thoại và 01 phong bì được niêm phong chứa Methamphetamine, trọng lượng sau giám định là 0,1488 gam;

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu đen.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/8/2018, bút lục 88).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phan Huỳnh X phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyên khang cao trong han 15 (mười lăm) ngay, kê tư ngay tuyên an; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 241/2018/HS-ST ngày 06/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:241/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về