Bản án 240/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 240/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 187/2020/TLST - HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020 về việc: “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2020/QĐXX- ST ngày 13/ 11/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1984 Địa chỉ: Xóm 7 , xã M, huyện Đ, tỉnh N. Có mặt

- Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng Th, sinh năm 1982 Địa chỉ: Xóm 7 , xã M, huyện Đ, tỉnh N. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn xin ly hôn và bản tự khai ngày 19 tháng 10 năm 2020 của nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày: Chị Trần Thị T và anh Nguyễn Trọng Th kết hôn vào ngày 26/4/2007, trên cở sở tự nguyện có tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Minh Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Vợ chồng chỉ chung sống hạnh phúc được khoảng hai đến ba năm đầu và đến cuối năm 2010 anh Th đi làm ăn xa và có phát sinh tình cảm với người phụ nữ khác vì thế về nhà thường xuyên gây sự đánh đập vợ thường xuyên, cuộc sống cứ kéo dài căng thẳng bản thân chị T cố chịu đựng, nhưng việc đánh đập vợ đã trở thành thói quen ngay cả trước mặt con chung. Nay chị không thể chịu đựng và tiếp tục cuộc sống như vậy nữa nên yêu cầu được ly hôn với anh Th để trả tự do cho chị.

- Về con chung: Theo chị T trình bày vợ chồng có 02 người con chung tên là Nguyễn Thị Bích Ph, sinh năm 2007 và cháu Nguyễn Ngọc Trang Nhu, sinh năm 2013, nay ly hôn chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung bởi vì nếu để cho anh Thảo nuôi con chung chị không yên tâm và chị yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu mỗi tháng 500.000đ.

- Về tài sản và các khoản nợ chung của vợ chông: Chị Tý không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 19 tháng 10 năm 2020 và tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Trọng Th trình bày:

Anh Th và chị T kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, và có 02 người con chung như theo chị T trình bày, Sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận. Nhưng thời gian gần đây do dịch Covit, anh Th không đi làm được, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nhỏ nhưng không đáng kể. Nay chị T yêu cầu ly hôn anh Th không đồng ý mong muốn vợ chồng đoàn tụ.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến tại phiên tòa:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán và chấp hành pháp luật những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm nghị án là đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 56, 81, 82,83,84 Luật Hôn nhân và gia đình; điều 28, điểm a khoản 35, điều 39, điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Tuyên xử:

+ Về hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Trọng Th

+ Về con chung: Giao cho cho chị Trần Thị T trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục hai con chung tên là Nguyễn Thị Bích Ph, sinh năm 2007 và cháu Nguyễn Ngọc Trang Nh, sinh năm 2013 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành. Buộc anh Th phải có trách nhiệm dưỡng nuôi con chung cho chị T theo quy định của pháp luật

+ Về án phí: Nguyên đơn và bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Trần Thị T yêu cầu giải quyết về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung theo quy định tại khoản 5 điều 28 và khoản 1 điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự do vậy Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[2].Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị T và anh Nguyễn Trọng Th kết hôn vào ngày 26/4/2007 trên cở sở tự nguyện có tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Minh Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Xét thấy, vợ chồng chị T và anh Th chung sống hạnh phúc với nhau một thời gian đầu, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, nguyên nhân mâu thuẫn là vợ chồng thường xuyên cãi nhau, bất đồng quan điểm sống, hiện tại vợ chồng đã sống ly thân, đời sống chung vợ chồng không hạnh phúc. Căn cứ công văn số 98/UBND-TP ngày 13/11/2020 của Ủy ban nhân xã Minh Sơn cung cấp: Vợ chồng chị Trần Thị T và anh Nguyễn Trọng Th sống tại địa phương đã có đơn ly hôn do mâu thuẫn vợ chồng nhưng không yều cầu địa phương hòa giải và đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để xem xét giải quyết yêu cầu ly hôn và nuôi con chung giữa chị T và anh Th.

Xét thấy giữa vợ chồng chị T và anh Th đời sống chung vợ chồng mâu thuẫn kéo dài, không có hạnh phúc, tình cảm quan hệ vợ chồng đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị T được ly hôn với anh Th là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3]. Về con chung: Vợ chồng chị T và anh Th có 02 người con chung tên là Nguyễn Thị Bích Ph, sinh ngày 30/11/ 2007 và cháu Nguyễn Ngọc Trang Nh, sinh ngày 27/7/ 2003. Chị T có nguyện vọng được nuôi cả 02 con chung và tại phiên tòa anh Th đề nghị giao cho mỗi người nuôi một con chung và không phải cấp dưỡng nuôi con chung Xét thấy việc giao nuôi con chưa thành niên cho ai nuôi dưỡng cần căn cứ vào điều kiện chăm sóc chung và nguyện vọng của con chung và ổn định tâm lý cho các cháu cũng như điều kiện sinh hoạt học tập cho con chưa thành niên. Xét thấy hiện tại chị T có chỗ ở, thu nhập ổn định, nguyện vọng của hai con chung đều muốn được ở với mẹ, anh Th thường xuyên đi làm xa không có mặt tại địa phương nên việc chăm sóc nuôi dưỡng con chung không đảm bảo được. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị T được trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục 02 con chung như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp.

Đối với yêu cầu cấp dương nuôi con chung cầu nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung . Chị Tý yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 500.000đ /cháu, xét nguyện vọng của chị T là chính đáng để đảm bảo quyền lợi cho con chưa thành niên, hiện tại anh Th có nghề nghiệp thợ xây thu nhập ổn định 07 đến 09 triệu/tháng nên buộc anh Th phải cấp dưỡng nuôi con chung theo yêu cầu của chị T là phù hợp với quy định pháp luật.

[4].Về tài sản chung và các khoản nợ chung: chị T và anh Th không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

[5].Về án phí: Căn cứ vào điều 147, khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án cần buộc chị Trần Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 84 Luật Hôn nhân gia đình và khoản 1 Điều 28; Điều 35, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 5, 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Trọng Th

2. Về con chung: Giao cho chị Trần Thị T trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục hai con chung Nguyễn Thị Bích Ph, sinh ngày 30/11/ 2007 và cháu Nguyễn Ngọc Trang Nh, sinh ngày 27/7/ 2013 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành. Buộc anh Nguyễn Trọng Th phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Trần Thị T mỗi tháng 1.000.000đ/ 02 cháu cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi, trưởng thành. Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 12 năm 2020.

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con chung lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con chung.

Người trực tiếp nuôi con chung cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con chung trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản và các khoản nợ: Chị Trần Thị T không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

4.Về án phí: Nguyên đơn Chị Trần Thị T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí ly hôn đã nộp theo biên lai số 0005440 ngày 09/ 10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Chị Trần Thị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Bị đơn anh Nguyễn Trọng Th phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Kể từ ngày bản án quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 240/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:240/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về