Bản án 239/2020/HSST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 239/2020/HSST NGÀY 29/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại hội trường Tòa án nhân dân th ành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 235/2020/TLST-HS ngay 11 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 241 /2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2020 đôi vơi các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Đa L, tên gọi khác: Không, sinh ngày: 23/11/1994; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm 5 Kim Tân, xã Kim Phượng, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Tr độ văn hóa: 12/12:

Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch:Việt Nam; Con ông: Nguyễn Đa Chiến; Con bà: Hoàng Thị Tr; Vợ: Trần Thị Lan, sinh năm 1998, Có 01 con sinh năm 2017; Tiền án - tiền sự: Không:

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam ngày nào. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Nguyễn Phúc Th, tên gọi khác: Không, sinh ngày:

06/3/1996; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm Làng Giản, xã Lam Vỹ, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Tr độ văn hóa:

07/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch:Việt Nam; Con ông: Nguyễn Phúc T; Con bà: Mông Thị B; Vợ, con: Chưa có; Tiền án - tiền sự: Không:

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam ngày nào. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương. (Có mặt tại phiên tòa).

3. Họ và tên: Nguyễn Văn Tr, tên gọi khác: Không, sinh ngày: 02/8/1995; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm Bảo Hoa 1, xã Bảo Linh, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Không; Tr độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch:Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn C; Con bà: Hoàng Thị Đ; Vợ, con: Chưa có; Tiền án - tiền sự: Không:

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam ngày nào. Hiện bị cáo đang tại ngoại tại địa phương. (Có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại: Chị Lê Thị Kim L, sinh năm 1967, trú tại: Tổ 4, phường Tân Lập, TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.(Có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Văn L1, sinh năm 1974, trú tại: Tổ dân phố P, phường L, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên.(Có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa)

2. Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1979, trú tại: Tổ dân phố P, phường L, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên.(Có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Đa L là nhân viên bốc vác của nhà phân phối Loan Liêm (do bà Lê Thị Kim Loan, sinh năm 1967, trú tại: Tổ 04, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên làm chủ), ban ngày L theo xe tải chở hàng đi bốc xếp hàng hóa bán lẻ cho các cửa hàng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, còn buổi tối được ngủ tại kho xe, địa chỉ tại tổ 12, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên để trông nom tài sản, được trả lương 6.000.000 đồng/ tháng (không có hợp đồng lao động). Do vào dịp giáp tết Nguyên đán, không có tiền tiêu xài cá nhân và thấy bà Loan sơ hở trong việc quản lý hàng hóa tại kho nên khoảng cuối tháng 12/2019 Nguyễn Đa L có bàn bạc với Nguyễn Phúc Th (trước đây là người làm thuê bốc vác hàng cho bà Loan đã bị cho nghỉ việc từ khoảng tháng 5/2019) về việc trộm cắp hàng trên xe ô tô tải tại kho xe mang đi bán lấy tiền tiêu tết, L nói với Th là khi nào có hàng về kho thì sẽ thông báo cho Th đến cùng trộm cắp tài sản, Th đồng ý. Sáng ngày 13/01/2020, L gọi điện thoại cho Th và bảo “Tối nay xuống đi”. Khoảng 17 giờ cùng ngày, Th rủ Nguyễn Văn Tr cùng đi xuống thành phố Thái Nguyên để trộm cắp tài sản, Tr đồng ý, cả hai đi xe taxi xuống thành phố Thái Nguyên chờ điện thoại của L. Vào khoảng 21 giờ ngày 13/01/2020, biết xe tải biển kiểm soát: 20C-081.14 do anh Nguyễn Văn Tú (sinh năm 1983, trú tại: Thôn Gò Thượng, xã An Nội, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam) là lái xe của nhà bà Loan nhập hàng từ công ty về chưa kịp nhập kho, toàn bộ hàng hóa vẫn để trong thùng xe khóa kín do anh Tú giữ chìa khóa xe ô tô và chìa khóa thùng xe, L đã gọi điện cho Th bảo “Vào kho đi”. Th đã từng làm thuê cho bà Loan nên biết địa chỉ kho hàng, Th và Tr đi xe taxi đến kho, khi đó ngoài L ra không có ai ở kho, cả ba bắt đầu việc trộm cắp tài sản. L dùng chìa khóa đã nhặt được tại kho từ trước mở cửa thùng xe tải BKS: 20C-081.14. Sau đó, cả ba cùng bốc các thùng hàng từ xe tải biển kiểm soát: 20C-081.14 sang xe tải biển kiểm soát: 20C- 4508 (là xe của nhà bà Loan để cạnh đó, chìa khóa vẫn cắm trên xe), gồm 132 thùng bột canh iot Hải Châu và 54 thùng bánh trứng Hữu Nghị. Sau khi bốc hàng xong, Th gọi điện thoại cho chị Nguyễn Thị Chinh (sinh năm 1979, trú tại: Tổ dân phố Pha, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên), nói: “Em ở bên giao hàng, do kho xuất thừa nên có hàng là bột canh và bánh trứng muốn bán”, chị Chinh nghe vậy nên đồng ý mua. Sau đó, Th lái xe chở L và Tr mang số hàng trên xuống cửa hàng phân phối Chinh Long ở tổ dân phố Sau, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên) để bán cho chị Chinh. Khi đến nơi, Th gọi điện cho chị Chinh mở cửa, Nguyễn Văn Long (sinh năm 1974, HKTT: Tổ dân phố Pha, phường Lương Sơn, thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên) là chồng chị Chinh ra mở cửa kho, Th lái xe lùi vào kho rồi cùng L và Tr bốc hàng xuống. Sau khi bốc hàng xong, Th là người đứng ra giao dịch với chị Chinh và thống nhất bán số hàng trên với giá:

27.960.000 đồng. Chị Chinh bảo anh Long lấy số tiền 27.900.000 đồng trả cho Th, Th nhận tiền rồi cả ba lên xe đi về thành phố Thái Nguyên. Trên đường đi, cả ba đối tượng dừng lại ven đường để chia tiền Th chia cho L 9.200.000 đồng, chia cho Tr 9.200.000 đồng còn Th giữ lại số tiền 9.500.000 đồng. Khi xe về đến khu vực cổng trường Đại học kỹ thuật công nghiệp Thái Nguyên thì Tr và Th xuống xe. Còn L lái xe về kho, cất xe rồi đi ngủ. Đến sáng ngày 14/01/2020, anh Nguyễn Văn Tú đến kho xe lái chiếc xe ô tô tải biển kiểm soát: 20C-081.14 chở hàng đến kho hàng của nhà bà Loan ở tổ 4, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên để bốc hàng xuống thì phát hiện bị mất trộm tài sản như nêu trên. Bà Lê Thị Kim Loan đã đến Cơ quan Công an Tr báo sự việc.

Sau khi mua số hàng trên, cửa hàng Chinh Long đã bán đi 50 thùng bột canh Hải Châu và 10 thùng bánh trứng, còn lại 82 thùng bánh trứng và 44 thùng bột canh đã giao nộp cho cơ quan điều tra.

Tại Kết luận định giá tài sản số 19 ngày 20/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS TP Thái Nguyên kết luận như sau: 132 thùng bột canh i ốt Hải Châu trị giá 21.120.000 đồng; 54 thùng bánh trứng Hữu Nghị (các loại) trị giá 12.990.000 đồng. Tổng trị giá tài sản trên là: 34.110.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Đa L, Nguyễn Phúc Th và Nguyễn Văn Tr đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nêu trên. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại,người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, vật chứng vụ án, kết luận định giá, đơn Tr báo cùng các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

* Vật chứng của vụ án gồm:132 thùng bột canh i ốt Hải Châu và 54 thùng bánh trứng Hữu Nghị (các loại). Đã thu hồi được 80 thùng bột canh Hải Châu và 44 thùng bánh trứng Hữu Nghị do anh Nguyễn Văn Long là chủ cửa hàng Chinh Long giao nộp, hiện Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Lê Thị Kim Loan là chủ sở hữu quản lý, sử dụng; Số tiền: 27.900.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam do Nguyễn Đa L, Nguyễn Phúc Th và Nguyễn Văn Tr tự nguyện giao nộp. Hiện Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Chinh là chủ cửa hàng Chinh Long quản lý, sử dụng; Số tiền: 8.500.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam do chị Nguyễn Thị Chinh giao nộp, hiện Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Lê Thị Kim Loan quản lý, sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, vỏ màu hồng,số IMEI: 35542 8077439085, tạm giữ của Nguyễn Văn Tr; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, vỏ màu ghi xám, số IMEI: 3561 4509 2099947, tạm giữ của Nguyễn Phúc Th; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A3S, vỏ màu đỏ, số IMEI 1: 8615 7004 3901313, số IMEI 2:

8615 7004 3901305, tạm giữ của Nguyễn Đa L. Hiện các vật chứng trên đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Về phần dân sự: Bị hại Lê Thị Kim Loan đã nhận được số tiền 8.500.000 đồng và tài sản, ngoài ra còn yêu cầu các bị cáo bồi thường tiếp số tiền 2.400.000 đồng là tiền chênh lệch giá trị tài sản đối với số hàng 50 thùng bột canh Hải Châu và 10 thùng bánh trứng mà cửa hàng Chinh Long đã bán so với giá nhập hàng mà bà Loan đã thanh toán. Ngày 20 tháng 5 năm 2020 các bị cáo L, Th, Tr đã đến Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên nộp số tiền 2.400.000 đồng. Bị hại chị Lê Thị Kim Loan có đơn xin xét xử vắng mặt xác định đã nhận đủ số tiền các bị cáo bồi thường và không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự; Chị Nguyễn Thị Chinh, anh Nguyễn Văn Long là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại số tiền 27.900.000 đồng và không có yêu cầu, đề nghị gì.

Tại bản Cáo trạng số 241/CT-VKSTPTN ngày 06 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Đa L, Nguyễn Phúc Th, Nguyễn Văn Tr về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự:

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả. Các bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật.

Kết thúc phần Th vấn, tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ quyền công tố đã Tr bày bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Đa L, Nguyễn Phúc Th, Nguyễn Văn Tr phạm tội:“Trộm cắp tài sản”.

*Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt các bị cáo Nguyễn Đa L, Nguyễn Phúc Th mỗi bị cáo từ 24  đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 60 tháng.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Tr từ 18 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng.

* Hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

* Trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của các bị cáo và bị hại.Trả cho chị Lê Thị Kim Loan, sinh năm 1967, ĐKHKTT tại Tổ 4, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên số tiền 2.400.000đ (Hai triệu bốn trăm nghìn đồng), theo Biên lai thu tiền số 0000225, 0000226, 0000227 ngày 20/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Chị Nguyễn Thị Chinh, anh Nguyễn Văn Long là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại số tiền 27.900.000 đồng và không có yêu cầu, đề nghị gì nên không xem xét giải quyết.

* Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

* Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; Bị hại; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, các bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố, xét xử là đúng người đúng tội, không oan. Các bị cáo nói lời sau cùng ăn năn hối hận vì hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử cho được hưởng mức án thấp nhất và xin được cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được Th tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử NHẬN THẤY

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trong quá Tr điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về Th quyền, Tr tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá Tr điều tra và tại phiên tòa các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

Tại phiên tòa vắng mặt bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, tuy nhiên Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên tòa đối với chị Loan, chị Chinh và anh Long đồng thời chị Loan, chị Chinh và anh Long đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt tại phiên tòa do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, Điều 296 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, các bị cáo xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội, không oan. Xét thấy lời nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án như: biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 21 giờ ngày 13/01/2020, tại tổ 12, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Đa L, Nguyễn Phúc Th và Nguyễn Văn Tr đã thực hiện hành vi trộm cắp 132 thùng bột canh i ốt Hải Châu và 54 thùng bánh trứng Hữu Nghị (các loại) của cửa hàng Loan Liêm do bà Lê Thị Kim Loan làm chủ. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là: 34.110.000 đồng. Hiện tài sản đã được thu hồi và trả lại cho người bị hại là bà Loan quản lý, sử dụng. Bà Loan yêu cầu các bị cáo L, Th và Tr tiếp tục bồi thường số tiền 2.400.000 đồng do chênh lệch giá trị tài sản không thu hồi được, đến nay các bị cáo đã bồi thường xong.

Như vậy với hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Đa L, Nguyễn Phúc Th và Nguyễn Văn Tr đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3]. Bản cáo trạng số: 241/CT-VKSTPTN ngày 06/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố các bị cáo Nguyễn Đa L, Nguyễn Phúc Th và Nguyễn Văn Tr về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Nội dung điều 173 quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng...thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[4] Về tính chất, mức độ của hành vi: Vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo là người có đủ năng L trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ và bị pháp luật nghiêm cấm nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi với lỗi cố ý, làm mất trật tự an toàn xã hội, bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

[5] Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án này thấy rằng, bị cáo Nguyễn Đa L gọi điện rủ bị cáo Th đi trộm cắp tài sản, bị cáo Th là người lái xe, trực tiếp giao dịch bán tài sản do các bị cáo trộm cắp mà có và là người trực tiếp thu tiền và chia tiền, bị cáo Tr với vai trò là đồng phạm, vì vậy hội đồng xét xử căn cứ vào mức độ hành vi của từng bị cáo để xem xét có mức hình phạt tương xứng đối với các bị cáo.

[6] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, trong quá Tr điều tra và tại phiên tòa sơ Th các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và đã tự nguyện khắc phục hậu quả cho bị hại, bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt, về phần hình sự xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, do đó các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ Luật hình sự năm 2015.

[7] Về hình phạt: Hội đồng xét xử thấy, các bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, sau khi phạm tội đã thật sự thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải. Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và lời thỉnh cầu của các bị cáo, cho các bị cáo được cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo không có công ăn việc làm, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, vỏ màu hồng, số IMEI: 355428077439085, đã qua sử dụng tạm giữ của Nguyễn Văn Tr; 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, vỏ màu ghi xám, số IMEI: 356145092099947, đã qua sử dụng tạm giữ của Nguyễn Phúc Th; 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S, vỏ màu đỏ, số IMEI 1:

861570043901313; số IMEI 2: 861570043901305, đã qua sử dụng tạm giữ của Nguyễn Đa L các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận được số tiền 8.500.000 đồng và tài sản, ngoài ra bị hại yêu cầu các bị cáo L, Th và Tr tiếp tục bồi thường số tiền 2.400.000 đồng do chênh lệch giá trị tài sản. Ngày 20/5/2020 các bị cáo Nguyễn Phúc Th, Nguyễn Đa L, Nguyễn Văn Tr tự nguyện đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên nộp tiền bồi thường cho bị hại là chị Lê Thị Kim Loan, sinh năm 1967, ĐKHKTT tại Tổ 4, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên tỉnh Thái Nguyên cụ thể: Bị cáo Nguyễn Phúc Th nộp 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000226 ngày 20/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Bị cáo Nguyễn Đa L nộp 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000225 ngày 20/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên;Bị cáo Nguyễn Văn Tr nộp 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000227 ngày 20/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

Số tiền trên các bị cáo đã nộp tại Chi cục Thi hành án án dân sự thành phố Thái Nguyên trước ngày mở phiên tòa, cần trả cho chị Lê Thị Kim Loan, sinh năm 1967, ĐKHKTT tại Tổ 4, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên tỉnh Thái Nguyên. Đến nay các bị cáo đã bồi thường xong. Do đó Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của các bị cáo và bị hại.

Chị Nguyễn Thị Chinh, anh Nguyễn Văn Long là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại số tiền 27.900.000đ ( Hai mươi bẩy triệu chín trăm nghìn đồng) và không có yêu cầu, đề nghị gì, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[1]. Về tội danh: Tuyên bố các Nguyễn Đa L, Nguyễn Phúc Th và Nguyễn Văn Tr phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

[2]. Về hình phạt: Áp dụng Khoản 1 Điều 173, điểm b, i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Nguyễn Đa L, Nguyễn Phúc Th mỗi bị cáo 24 (Hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (Bốn mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ Th.

Xử phạt: Nguyễn Văn Tr 18 (Mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (Ba mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ Th.

Giao bị cáo Nguyễn Đa L cho UBND xã Kim Phượng, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Nguyễn Phúc Th cho UBND xã Lam Vỹ, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Nguyễn Văn Tr cho UBND xã Bảo Linh, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Trả cho chị Lê Thị Kim Loan, sinh năm 1967, ĐKHKTT tại Tổ 4, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên tỉnh Thái Nguyên số tiền 2.400.000đ (Hai triệu bốn trăm nghìn đồng), theo Biên lai thu tiền số 0000225, 0000226, 0000227 ngày 20/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

[5]. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, vỏ màu hồng, số IMEI: 355428077439085, đã qua sử dụng; 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, vỏ màu ghi xám, số IMEI:

356145092099947, đã qua sử dụng: 01(Một)điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S, vỏ màu đỏ, số IMEI 1: 861570043901313; số IMEI 2: 861570043901305, đã qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 304 ngày 08/5/2020 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

[6]. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc Nguyễn Đa L, Nguyễn Phúc Th và Nguyễn Văn Tr mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ Th nộp ngân sách Nhà nước.

[7]. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Án xử công khai sơ Th có mặt các bị cáo, báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ Th trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 239/2020/HSST ngày 29/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:239/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về