Bản án 239/2019/HNGĐ-ST ngày 25/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 239/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 803/2019/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 7 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 294/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Lý Thị Ngọc H, sinh năm 1983. (xin vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ B, ấp T, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Trương Thăng Gi, sinh năm 1967. (xin vắng mặt)

Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 23 tháng 7 năm 2019 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Lý Thị Ngọc H trình bày: Chị và anh Trương Thăng Gi sau thời gian tìm hiểu và tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh Long An vào ngày 09/4/2010. Đến năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm. Anh Gi không lo làm ăn nên Chị bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống từ năm 2016 cho đến nay, từ đó vợ chồng sống ly thân. Nay, Chị xin ly hôn với anh Gi.

Về con chung: Chị và anh Gi có con chung tên Trương Gia Kiệt, sinh ngày 17/02/2011, con hiện đang sinh sống với anh Gi. Khi ly hôn, Chị đồng ý giao con cho anh Gi nuôi, Chị không cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị nêu không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trương Thăng Gi có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, tại Bản tự khai anh Gi trình bày: Anh thống nhất với lời trình bày của chị H về thời gian chung sống, điều kiện kết hôn, con chung, giữa Anh và chị H phát sinh mâu thuẩn, chị H tự ý bỏ đi nên Anh đồng ý ly hôn.

Về con chung: Khi ly hôn, anh Gi yêu cầu tiếp tục nuôi con chung tên Trương Gia K, sinh ngày 17/02/2011, con hiện đang sinh sống với Anh, không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh Gi nêu không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho anh Trương Thăng Gi, anh Gi có bản tự khai và có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp công khai chứng cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Chị Lý Thị Ngọc H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Trương Thăng Gi; anh Gi có hộ khẩu thường trú tại ấp H, xã H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (Công an xã xác nhận) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị H và bị đơn anh Gi có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ vào Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Gi chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh Long An vào ngày 09/4/2010 nên hôn nhân giữa Anh Chị là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về yêu cầu ly hôn: Trong quá trình chung sống, Chị H cho rằng năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm. Anh Gi không lo làm ăn nên Chị bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống từ năm 2016 cho đến nay, từ đó vợ chồng sống ly thân. Nay, Chị xin ly hôn với anh Gi.

Đi với anh Gi, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của Chị H nhưng anh Gi không tham dự phiên tòa. Anh Gi có đơn xin vắng mặt. Anh Gi cho rằng giữa Anh và chị H phát sinh mâu thuẩn, chị H tự ý bỏ đi nên Anh đồng ý ly hôn. Căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Gi, chị H.

[4]. Về con chung: Chị H và anh Gi có con chung tên Trương Gia K, sinh ngày 17/02/2011, con hiện đang sinh sống với anh Gi. Khi ly hôn, chị H đồng ý giao con cho anh Gi nuôi, Chị không cấp dưỡng. Anh Gi yêu cầu tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu chị H cấp dưỡng. Xét thấy, sự thỏa thuận giữa chị H và anh Gi là phù hợp với nguyện vọng của cháu K và phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Chị H, anh Gi nêu không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lý Thị Ngọc H đối với anh Trương Thăng Gi về việc “Ly hôn”.

Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lý Thị Ngọc H và anh Trương Thăng Gi thuận tình ly hôn.

- Về con chung: Anh Gi được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Trương Gia K, sinh ngày 17/02/2011, con hiện đang sinh sống với anh Gi. Chị H không cấp dưỡng nuôi con vì anh Gi không yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung vào ngân sách Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0003251 ngày 31/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An. Chị H đã nộp đủ.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 239/2019/HNGĐ-ST ngày 25/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:239/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về