Bản án 238/2019/DS-ST ngày 06/11/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Y – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 238/2019/DS-ST NGÀY 06/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 06 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sở thẩm công khai vụ án thụ lý số 65/2019/TLST-DS ngày 07 tháng 3 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2019/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên toà số 480/2019/QĐST-DS ngày 15 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty A

Trụ sở: Tầng 2, Tòa nhà REE Tower, số 9 đường B, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh

Ông G; cư trú tại số 199 đường C, phường Đ, quận B, Thành phố Hà Nội là người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn (Chủ tịch hội đồng thành viên của Công ty A)

Bà T là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Giấy ủy quyền số 136/UQ-VH.18 ngày 29/8/2018)

Bà T ủy quyền lại cho ông Đ làm đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số 1069/UQTA-VH.18 ngày 14/11/2018) (Xin vắng mặt)

Bị đơn: Ông Q, sinh năm 1986, thường trú: 3K đường Ô, Phường P, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện đề ngày 14/11/2018, Bản tự khai ngày 12/6/2019, nguyên đơn Công ty A (sau đây gọi tắt là Công ty) có người đại diện theo ủy quyền là ông Đ trình bày:

Ngày 21/9/2015, ông Q có ký giấy đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng số: 20150921-100246-0005 với Công ty vay số tiền 15.297.500 đồng, trong đó khoản vay tiêu dùng là 14.500.000 đồng và phí bảo hiểm là 797.500 đồng, lãi suất 4.58%/tháng để tiêu dùng cá nhân. Theo thỏa thuận tại hợp đồng, ông Q có trách nhiệm thanh toán số tiền 26.113.000 đồng (gồm cả gốc và lãi), trả chậm liên tiếp trong 24 tháng, 23 tháng đầu, mỗi tháng trả 1.065.000 đồng, tháng cuối cùng trả 1.618.000 đồng, thanh toán vào ngày 01 hàng tháng, bắt đầu từ ngày 01/11/2015.

Thc hiện hợp đồng, ông Q đã nhận đủ số tiền nêu trên và thanh toán cho Công ty tổng số tiền là 1.077.000 đồng. Kể từ ngày 29/01/2016 đến nay, ông Q không thanh toán thêm bất cứ khoản nào cho Công ty dù Công ty đã nhiều lần nhắc nhở.

Nay, Công ty khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc ông Q phải thanh toán tổng số tiền là 25.036.000 đồng, trong đó nợ gốc là 15.143.977 đồng, lãi là 9.892.023 đồng. Yêu cầu thanh toán một lần ngay khi án có hiệu lực.

Bị đơn – ông Q đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án số 644/2018/GB-TA ngày 07/3/2019; Giấy triệu tập ngày 20/5/2019 để ghi nhận ý kiến về việc khởi kiện của nguyên đơn; Giấy triệu tập các ngày 24/6/2019, 12/8/2019 về việc tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Các Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cùng số 65/TB-TA các ngày 24/6/2019 và 12/8/2019; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2019/QĐXXST-DS ngày 23/9/2019 và giấy triệu tập tham gia phiên tòa; Quyết định hoãn phiên tòa số 480/2019/QĐST-DS ngày 15/10/2019 và Giấy triệu tập tham gia phiên tòa, nhưng ông Q vẫn không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vắng mặt không lý do trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa hôm nay.

Tại phiên toà sơ thẩm, Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận Y phát biểu quan điểm:

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng quy trình tố tụng giải quyết vụ án.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Toà án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Q phải thanh toán tổng số tiền là 25.036.000 đồng, trong đó nợ gốc là 15.143.977 đồng, lãi là 9.892.023 đồng. Yêu cầu thanh toán một lần ngay khi án có hiệu lực.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn là Công ty A (sau đây gọi tắt là Công ty) khởi kiện, yêu cầu ông Q trả tiền nợ theo giấy đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng số 20150921-100246-0005 ngày 21/9/2015. Ông Q có hộ khẩu thường trú tại số 3K đường Ô, Phường P, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, đây là tranh chấp về hợp đồng dân sự quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. Vụ án thuộc trường hợp Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa theo khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn đề ngày 20/9/2019 đề nghị được vắng mặt khi Tòa án xét xử vụ án. Bị đơn là ông Q đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2019/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 9 năm 2019 và Giấy triệu tập tham gia phiên tòa; Quyết định hoãn phiên tòa số 480/2019/QĐST-DS ngày 15/10/2019 và Giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Về yêu cầu của đương sự: Nguyên đơn Công ty yêu cầu Tòa án buộc ông Q phải thanh toán tổng số tiền là 25.036.000 đồng, trong đó nợ gốc là 15.143.977 đồng, lãi là 9.892.023 đồng làm một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[4] Căn cứ giấy đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng số 20150921- 100246-0005 ngày 21/9/2015 giữa ông Q với Công ty thể hiện ông Q có vay số tiền 15.297.500 đồng, thời hạn vay 24 tháng tính từ ngày 01/11/2015, lãi suất 4.58%/tháng. Các bên tham gia ký kết giấy đề nghị vay vốn trên cơ sở tự nguyện, nội dung không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên được xem là hợp pháp làm phát sinh hiệu lực pháp luật.

[5] Về thời hạn thanh toán: Xét thấy việc ông Q không thanh toán tiền gốc và lãi hàng tháng cho Công ty từ ngày 29/01/2016 đến nay là vi phạm nghĩa vụ như đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng nên Công ty yêu cầu ông Q thanh toán toàn bộ khoản nợ trên một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật là có căn cứ nên chấp nhận.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Q đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán đã được các bên thỏa thuận ký kết theo hợp đồng, đồng thời vi phạm Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2005Luật các tổ chức tín dụng. Do vậy, từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông Q có nghĩa vụ phải thanh toán cho Công ty tổng số tiền nợ gốc và lãi là 25.036.000 đồng.

Ý kiến phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên có căn cứ để chấp nhận.

[7] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn là ông Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn là Công ty.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 266; Điều 267; Điều 271 và Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Căn cứ khoản 2 Điều 91, điểm a khoản 3 Điều 98 Luật các Tổ chức tín dụng;

- Căn cứ Luật phí và lệ phí số 87/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty A:

1.1 Buộc ông Q phải trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật cho Công ty A số nợ theo giấy Đề nghị vay vốn kiêm hợp đồng tín dụng số 20150921-100246-0005 ngày 21/9/2015 tổng số tiền là 25.036.000 đồng (Hai mươi lăm triệu, không trăm ba mươi sáu nghìn đồng), trong đó nợ gốc là 15.143.977 đồng và lãi là 9.892.023 đồng.

Việc giao nhận tiền do hai bên tự thực hiện hoặc tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

1.2 Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của Công ty A đối với số tiền mà ông Q phải trả cho Công ty A cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng ông Q còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

2.1. Ông Q chịu 1.251.800 đồng (Một triệu, hai trăm năm mươi mốt nghìn, tám trăm đồng) 2.2. Hoàn tiền tạm ứng án phí cho Công ty A số tiền 625.900 đồng (Sáu trăm hai mươi lăm nghìn chín trăm đồng) theo biên lai thu số AG/2014/0006899 ngày 25/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Về quyền kháng cáo:

Công ty A và ông Q vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 238/2019/DS-ST ngày 06/11/2019 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:238/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 9 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về