TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 237/2019/DS-PT NGÀY 23/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Ngày 23 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 198/2019/TLPT-DS ngày 17 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2019/DS-ST ngày 06 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện B bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 173/2019/QĐPT-DS ngày 01 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Cẩm H, sinh năm 1964, cư trú tại: Ấp X, xã B1, huyện B, tỉnh Bến Tre.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1951, cư trú tại: Ấp G, xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Dương Văn K (Hai T), sinh năm 1948, cư trú tại: Ấp G, xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Hữu D, Luật sư của Văn phòng luật sư Nguyễn Hữu D, thuộc đoàn luật sư tỉnh Bến Tre.
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị H1 là bị đơn, ông Dương Văn K là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 18/10/2016 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N trình bày:
Ngày 10/9/2013 (Âl), bà H1 tham gia một phần hụi 5.000.000 đồng do bà H làm chủ, dây hụi gồm 20 phần, bà H1 hốt đầu nên bà H giao tiền hụi cho bà H1 là 72.200.000 đồng trừ đi tiền thảo hụi là 2.200.000 đồng (thực tế tiền thảo hụi là 2.500.000 đồng nhưng bà H tính chẵn là 2.200.000 đồng), như vậy số tiền hụi bà H giao cho bà H1 lãnh hụi là 70.000.000 đồng nhưng do thời gian đã lâu nên danh sách hụi viên của dây hụi này bà H không còn lưu giữ. Sau đó, bà H1 chỉ đóng được một lần hụi chết là 5.000.000 đồng vào ngày 10/10/2013 (Âl), còn nợ lại 18 tháng hụi chết là 90.000.000 đồng. Thực tế, bà H giao số tiền hụi 70.000.000 đồng cho bà H1 trước khi mở hụi là 02 tháng, trước đó do gom hụi viên chưa đủ người nhưng bà H1 có yêu cầu nhận tiền hụi trước rồi đóng lại hụi chết từng tháng sau. Trước khi bà H1 ký tên vào giấy hụi với bà H thì ông K có nói với bà H là giao phần hụi 5.000.000 đồng để lo cho 02 người con đi học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong giấy viết tay không tiêu đề có nội dung: “giao hụi chị Hai T chân 5.000.000 khui ngày 10/9/2013 hốt đầu…bắt đầu ngày 10/10/2013 là 1 lần rồi H1…” do bà H cung cấp cho Tòa án thì những dòng chữ này là do bà H viết, riêng chữ ký “H1” trong giấy này là do bà H1 tự ký vào, còn các dòng ghi số phía dưới chữ “H1” như: “11-x,…4x tháng 5/2015 mãng” là do bà H viết. Khi bà H đến nhà vợ chồng ông K và bà H1 để góp hụi thì ông K có hứa xin trả dần tiền hụi, trước khi khởi kiện thì bà H gặp ông K để đòi nợ nhưng ông K không đồng ý trả. Nay bà yêu cầu bà H1 và ông K phải liên đới hoàn trả số tiền hụi là 90.000.000 đồng, yêu cầu tính lãi theo quy định pháp luật từ ngày 10/4/2015 (Âl) cho đến khi Tòa án xét xử, bởi vì bà H1 tham gia chơi hụi của bà H với mục đích để phát triển kinh tế gia đình.
Theo các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Nguyễn Thị H1 trình bày:
Bà không có tham gia chơi hụi với bà H, giấy hụi do bà H cung cấp cho Tòa án không có ghi tên đầu thảo là ai, không ghi tên hụi viên họ tên là gì mà chỉ ghi Hai T và H1 là không hợp lý, bà cũng không có ký tên vào giấy hụi này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Dương Văn K trình bày:
Ông là chồng của bà H1, ông không biết gì về việc chơi hụi giữa bà H1 với bà H, ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2019/DS-ST ngày 06 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện B đã quyết định như sau:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị Cẩm H.
Buộc bà Nguyễn Thị H1 và ông Dương Văn K phải liên đới hoàn trả cho bà Huỳnh Thị Cẩm H số tiền là 120.375.000 đồng (trong đó tiền hụi là 90.000.000 đồng và tiền lãi do chậm trả là 30.375.000 đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo bản án và quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/3/2019 bà Nguyễn Thị H1, ông Dương Văn K kháng cáo yêu cầu sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2019/DS-ST ngày 06 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện B, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Hai bên đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.
Ý kiến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Nguyên đơn không cung cấp được danh sách hụi viên và không được những người chơi hụi xác nhận việc bà H1 có tham gia chơi hụi do bà H làm chủ. Giấy giao hụi ghi chữ hốt đầu không cùng màu mực ghi trước hay ghi thêm cần được xem xét lại. Chữ ký H1 trong giấy giao hụi không phù hợp với chữ ký của bà H1, chữ ký này sắc nét không phù hợp với trình độ văn hóa lớp 1 của bà H1. Do Tòa án cấp sơ thẩm thu thập chứng cứ chưa đầy đủ làm ảnh hưởng nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn nên yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án dân sự sơ thẩm giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thầm giải quyết lại vụ án theo quy định pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về tố tụng: Người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự; về nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Nguyên đơn trình bày ngày 10/9/2013 (Âl) bà H1 có tham gia một phần hụi 5.000.000 đồng do bà H làm chủ, bà H1 hốt hụi đầu tiên với số tiền 70.000.000 đồng, sau đó bà H1 chỉ đóng được một lần hụi chết là 5.000.000 đồng vào ngày 10/10/2013 (Âl) nên còn nợ lại 18 tháng hụi chết là 90.000.000 đồng, do thời gian đã lâu nên danh sách hụi viên của dây hụi này bà H không còn giữ. Phía bị đơn cho rằng không giao dịch hụi với bà H và không có ký tên vào giấy viết tay do bà H cung cấp.
[2] Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là giấy viết tay có nội dung: “giao hụi chị Hai T chân 5.000.000 khui ngày 10/9/2013 hốt đầu 19 x 3.800 = 72.200.000 – 2.200.000 còn 70.000.000 bắt đầu ngày 10/10/2013 là 1 lần rồi H1 11-x…tháng 5/2015 mãng”, theo lời khai của bà H thì những dòng chữ này là do bà H viết, riêng chữ ký “H1” trong giấy này là do bà H1 tự ký vào để lãnh số tiền hụi mà bà đã giao cho bà H1 là 70.000.000 đồng. Phía bà H1 cho rằng bà không có ký tên vào giấy viết tay này, đồng thời giấy viết tay này cũng không có ghi tên đầu thảo là ai, không ghi tên hụi viên mà chỉ ghi Hai T và H1 là không hợp lý. Tuy nhiên, theo Kết luận giám định số: 2984/C54B ngày 14/9/2017 của Phân viện Khoa học hình sự - Bộ công an tại Thành phố Hồ Chí Minh xác định: “Chữ ký dạng chữ viết “H1” dưới dòng chữ “bắt đầu 10/10/2013 là 1 lần” trên tài liệu có nội dung giao tiền hụi, đề hụi khui ngày 10/9/2013 so với chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Thị H1 trên 03 tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M9 đến M11 là do cùng một người ký (viết) ra”; Kết luận giám định số: 87/C54-P5 ngày 11/7/2018 của Viện Khoa học hình sự - Tổng cục Cảnh sát – Bộ công an xác định: “chữ ký H1 tại dòng chữ viết thứ 8 tính từ trên xuống trên mẫu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký, chữ viết của bà Nguyễn Thị H1 trên các mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M13 là của cùng một người ký, viết ra”. Do đó, có căn cứ xác định giấy viết tay do bà H cung cấp cho Tòa án chính là chữ ký, chữ viết của bà Nguyễn Thị H1, điều này phù hợp với lời khai của các đương sự về tên thường gọi ở địa phương của ông K là ông “Hai T”.
[3] Theo nội dung giấy viết tay nêu trên mặc dù không có ghi đầy đủ nội dung thỏa thuận về hụi như: tên chủ hụi, số người tham gia, kỳ mở hụi, thể thức góp hụi và lĩnh hụi, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia hụi, trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ. Tuy nhiên, nội dung ghi: “giao hụi chị Hai T chân 5.000.000 khui ngày 10/9/2013 hốt đầu 19 x 3.800 = 72.200.000 – 2.200.000 còn 70.000.000 bắt đầu ngày 10/10/2013 là 1 lần rồi H1 11-x…tháng 5/2015 mãng” thể hiện được đây là hụi hưởng hoa hồng, phần hụi 5.000.000 đồng được mở hụi hàng tháng, gồm 20 phần hụi, bà H là chủ hụi, bà H1 là hụi viên, mở hụi đầu tiên là ngày 10/9/2013 (Âl), bà H1 đã lãnh hụi trong tháng đầu, số tiền mà bà H1 đã góp hụi là 3.800.000 đồng và đã lãnh hụi là 70.000.000 đồng và có chữ ký của bà H1 khi lãnh hụ. Bà H1 đã góp được 01 phần hụi, số tiền hoa hồng bà H được hưởng khi bà H1 lãnh hụi là 2.200.000 đồng, tính từ ngày 10/9/2013 (Âl) đến ngày kết thúc hụi (mãn hụi) là ngày 10/4/2015 (Âl) (trong năm 2014 có nhuần 02 tháng 9 âm lịch). Do bà H1 là hụi viên đã tham gia giao dịch hợp đồng góp hụi với bà H là chủ hụi nhưng không thực hiện đúng nghĩa vụ của hụi viên nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà H1 phải hoàn trả cho bà H số tiền hụi 90.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 479 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 30 Nghị định số: 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.
[4] Đối với yêu cầu tính lãi của bà H trên số tiền hụi 90.000.000 đồng theo quy định pháp luật từ ngày 10/4/2015 (Âl) đến ngày Tòa án xét xử. Theo quy định tại khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự năm 2005: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán”; tại thời điểm ngày 10/4/2015 (Âl) nhằm ngày 27/5/2015 (Dl) lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố là 09%/năm, do đó tính từ ngày 28/5/2015 đến ngày xét xử là ngày 06/3/2019 là 45 tháng, số tiền lãi được tính như sau: (0,75%/tháng x 45 tháng x 90.000.000 đồng) = 30.375.000 đồng. Như vậy, tổng cộng số tiền hụi mà bà H1 phải hoàn trả cho bà H là: 90.000.000 đồng + 30.375.000 đồng = 120.375.000 đồng.
[5] Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Dương Văn K là chồng của bị đơn bà Nguyễn Thị H1 mặc dù không có trực tiếp tham gia giao dịch góp hụi với bà H. Tuy nhiên, ông K và bà H1 là vợ chồng vẫn còn sống chung nhà, sinh hoạt chung.... việc bà H1 tham gia phần hụi tháng 5.000.000 đồng với bà H cũng nhằm mục đích tạo ra thu nhập trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp của bà H1 và ông K. Do đó, căn cứ quy định tại Điều 27, 30, 37 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những giao dịch hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm phục vụ các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Vì vậy, cần buộc ông K phải có nghĩa vụ liên đới cùng bà H1 trả nợ cho bà H là phù hợp.
Từ những nhận định trên, do người kháng cáo không cung cấp được chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo, nên giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2019/DS-ST ngày 06 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện B, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên được chấp nhận.
[6] Về chi giám định là 9.500.000 đồng, bà H1 và ông K phải có nghĩa vụ liên đới chịu. Do bà H đã tạm nộp số tiền 1.500.000 đồng, bà H1 và ông K đã tạm nộp số tiền 8.000.000 đồng nên buộc bà H1 và ông K phải có nghĩa vụ liên đới hoàn trả lại cho bà H là 1.500.000 đồng.
[7] Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, bà H1, ông K là người cao tuổi nên được miễn nộp.
Hoàn trả cho bà Huỳnh Thị Cẩm H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.250.000 đồng theo biên lai thu số 0004464 ngày 18/10/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bến Tre.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, bà H1 và ông K là người cao tuổi nên được miễn nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị H1, ông Dương Văn K;
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2019/DS-ST ngày 06 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bến Tre.
Áp dụng Điều 305, 479 Bộ luật Dân sự năm 2005; các Điều 27, 30, 37 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 30 Nghị định số: 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị Cẩm H về tranh chấp hợp đồng góp hụi với bị đơn bà Nguyễn Thị H1.
Buộc bà Nguyễn Thị H1 và ông Dương Văn K phải có nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho bà Huỳnh Thị Cẩm H số tiền hụi là 90.000.000 đồng và tiền lãi do chậm trả là 30.375.000 đồng, tổng cộng 120.375.000 đồng (một trăm hai mươi triệu ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng),
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Về chi giám định là 9.500.000 đồng (chín triệu năm trăm nghìn đồng), bà Nguyễn Thị H1, ông Dương Văn K phải có nghĩa vụ liên đới chịu. Do bà Huỳnh Thị Cẩm H đã tạm nộp số tiền 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng), bà Nguyễn Thị H1, ông Dương Văn K đã tạm nộp số tiền 8.000.000 đồng (tám triệu đồng) nên buộc bà Nguyễn Thị H1, ông Dương Văn K phải có nghĩa vụ liên đới hoàn trả lại cho bà Huỳnh Thị Cẩm H là 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng).
Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị H1, ông Dương Văn K là người cao tuổi nên được miễn nộp.
Hoàn trả cho bà Huỳnh Thị Cẩm H số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.250.000 đồng (hai triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004464 ngày 18/10/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị H1, ông Dương Văn K là người cao tuổi nên được miễn nộp.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 237/2019/DS-PT ngày 23/07/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi
Số hiệu: | 237/2019/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về