Bản án 237/2018/HNGĐ-ST ngày 12/06/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 237/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 12 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:464/2017/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2017 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm2018 và Quyết định hoãn phiên toà số 174/2018/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Mai L, sinh năm 1982

Địa chỉ: 17 Ấp 2, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt). Bị đơn: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1982.

Địa chỉ: 157 ấp 3, xã L, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 26 tháng 10 năm 2017, bản tự khai ngày 12 tháng 12 năm 2017, bản tự khai ngày 06 tháng 3 năm 2018 và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bà Nguyễn Thị Mai L là nguyên đơn trình bày:

Bà Nguyễn Thị Mai L và ông Nguyễn Văn V tự nguyện sống chung từ năm2014, đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 32, quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 10/5/2014.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông V thiếu trách nhiệm với gia đình, thường xuyên uống rượu, cờ bạc, bà L khuyên can nhưng ông V không sửa đổi. Bà L và ông V sống ly thân từ tháng 10 năm 2014. Trong thời gian sống ly thân, bà L và ông V mỗi người có cuộc sống riêng, không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Năm 2016, bà L gửi đơn xin ly hôn ông V tại Toà án nhân dân huyện Nhà Bè. Sau khi Toà án thụ lý vụ án và triệu tập ông V đến Toà giải quyết nhưng ông V không đến Toà, không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu xin ly hôn của bà L. Sau đó bà L đã rút đơn ly hôn để cho có thêm thời gian suy nghĩ và cho ông V thêm cơ hội sửa đổi. Tuy nhiên, sau khi bà L rút đơn thì tình trạng hôn nhân của bà và ông V vẫn không có sự cải thiện, vợ chồng vẫn sống ly thân, không ai quan tâm đến ai.

Nay bà L xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân khôngđạt được nên xin ly hôn ông Nguyễn Văn V để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Không có con chung.

Về tài sản chung: Không có tài sản chung. Về nợ chung: Không có nợ chung.

Bị đơn ông Nguyễn Văn V đã được Toà án tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ nhưng ông V không đến Toà giải quyết, không thể hiện ý kiến của ông đối với yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Mai L.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và nội dung trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng:

Qua kiểm sát giải quyết vụ án thì từ khi thụ lý đến thời điểm này thấy rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Tại phiên tòa hôm nay, đương sự có mặt đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình và tuân thủ nội quy phiên tòa. Đối với bị đơn vắng mặt không lý do mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng về thờigian, địa điểm mở phiên tòa nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng quy định tại khoản2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho ly hôn với ông Nguyễn Văn V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết:

Căn cứ vào giấy chứng nhận kết hôn số 32 quyển số 01/2014, do Ủy ban nhân dân xã T, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 10/5/2014 thì bà Nguyễn Thị Mai L và ông Nguyễn Văn V có quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Ông Nguyễn Văn V cư trú tại huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh. Nay bà L có đơn xin ly hôn nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn ông Nguyễn Văn V đã được Toà án tống đạt hợp lệ tất cả các văn bảntố tụng về thời gian, địa điểm mở phiên toà nhưng ông V vẫn vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt là hoàn toàn đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về yêu cầu của đương sự:

Nguyên nhân bà Nguyễn Thị Mai L xin ly hôn ông Nguyễn Văn V là do trong cuộc sống vợ chồng giữa bà L và ông V phát sinh mâu thuẫn vì ông V thiếu trách nhiệm với gia đình, thường xuyên uống rượu, cờ bạc dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, luôn bất đồng quan điểm; bà L cố gắng chịu đựng, khuyên can ông V nhưng ông V không thay đổi, mẫu thuẫn ngày càng căng thẳng, gay gắt. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2014. Năm 2016, bà L đã gửi đơn xin ly hôn ông Nguyễn Văn V tại Toà án nhân dân huyện Nhà Bè. Sau khi Toà án thụ lý và triệu tập ông V đến Toà giải quyết nhưng ông V không hợp tác, không đến Toà, không thể hiện ý kiến của ông đối với yêu cầu xin ly hôn của bà L nên bà L đã rút đơn khởi kiện. Tuy nhiên, sau khi rút đơn tình trạng hôn nhân của bà L và ông V vẫn không khắc phục được mâu thuẫn, vợ chồng vẫn sống ly thân.

Căn cứ theo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ tại Hội liên hiệp phụ nữ xã L, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thì cơ quan này không tiếp nhận sự việc mâu thuẫn giữa bà Nguyễn Thị Mai L và ông Nguyễn Văn V.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thuỷ, tôn trọng và quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình….”

Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm2014: “...Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Hội đồng xét xử nhận định: Cuộc sống vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị Mai L và ông Nguyễn Văn V không hoà thuận, thường xuyên cãi nhau do ông V thiếu trách nhiệm với gia đình, không cùng chung quan điểm. Trong quá trình thụ lý vụ án và tại phiên tòa hôm nay, ông Nguyễn Văn V hoàn toàn không có mặt theo giấy triệu tập để trình bày ý kiến hay đưa ra các yêu cầu của mình. Tòa án đã tống đạt hợp lệ tất cả các văn bản tố tụng cho ông V tại nơi cư trú nhưng ông V vẫn không có mặt chứng tỏ ông V không có thiện chí hàn gắn, xây dựng tình cảm vợ chồng đối với bà L. Như vậy, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà L và ông V là có thật và khả năng hàn gắn không còn, đời sống hôn nhân đã đến mức trầm trọng nên mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Mai L đối với ông Nguyễn Văn V.

Về con chung: Không có con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Mai L xác định không có. Nếu sau này ông Nguyễn Văn V có yêu cầu sẽ được xem xét trong vụ kiện khác.

[3] Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) do bà Nguyễn Thị Mai L nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản4 Điều 147, Điều 228, Điều 266, Điều 273 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy banThường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự. Tuyên xử:

1/ Xét xử vắng mặt đối với bị đơn ông Nguyễn Văn V.

2/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Mai L được ly hôn với ông NguyễnVăn V.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Mai L xác định không có. Nếu sau này ông Nguyễn Văn V có yêu cầu sẽ được xem xét trong vụ kiện khác.

3/ Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) do bà Nguyễn Thị Mai L nộp, được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà bà L đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008308 ngày03/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ ChíMinh. Bà L đã nộp đủ án phí.

3/ Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Mai L được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; ông Nguyễn văn V được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

4/ Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều

2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 237/2018/HNGĐ-ST ngày 12/06/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:237/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về