Bản án 233/2018/DS-ST ngày 08/06/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 233/2018/DS-ST NGÀY 08/06/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 08 tháng 6 năm 2018, tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp,Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 04/2018/TLST-DS ngày 02 tháng 01 năm 2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 155/2018/QĐXXST- DS ngày 26 tháng 4 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 145/2018/QĐST-DS ngày 18 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần S; có trụ sở tại: Lầu T, đường, Phường T, Quận B, TP. Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D – Chức vụ: Tổng giámđốc.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lã Ngọc M; địa chỉ: M, Khu phốA, phường Đ, Quận M, TP. Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (Văn bản ủy quyền số 1560/2017/UQ-TTT ngày 30/11/2017 và giấy ủy quyền số1560A/2018/UQ-TTT, ngày 02/01/2018) (có mặt).

Bị đơn: Bà Lê Thị Mỹ N; địa chỉ thường trú: Số B, đường N, Phường H, quận G, TP.Hồ Chí Minh (vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S và lời khai tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Lã Ngọc M trình bày:

Ngày 06/3/2009 Bà Lê Thị Mỹ N có ký Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (Sau đây được viết tắt là Hợp đồng) với Ngân hàng TMCP S (sau đây được viết tắt là Ngân hàng). Hợp đồng bao gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng do bà N ký ngày 23/02/2009 và được Ngân hàng ký kết Hợp đồng vào ngày 06/3/2009; bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng có hiệu lực ngày 25/8/2008 và bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngânhàng có hiệu lực ngày 15/8/2014. Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng cho bà Ngọc, số thẻ tín dụng 4720 7400 0085 9100 với hạn mức sử dụng 15.000.000 đồng, với mục đích là tiêu dùng cá nhân. Lãi suất do Ngân hàng quy định theo từng thời kỳ, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất được công bố được áp dụng tại thời điểm hiện tại. Mức lãi suất Ngân hàng áp dụng tính lãi suất quá hạn với bà N vào thời điểm hiện tại là 2.15%/tháng. Các khoản nợ được thể hiện trên thông báo giao dịch. Sau khi được cấp thẻ tín dụng bà N đã thực hiện các giao dịch và được Ngân hàng chấp nhận với tổng sốtiền là 422.342.580 đồng.

Quá trình thực hiện Hợp đồng, bà N đã thanh toán cho Ngân hàng với tổng số tiền là 430.688.749 đồng. Trong đó đã thanh toán nợ gốc là 415.352.715 đồng, các khoản phí và lãi là 15.336.034 đồng. Do bà N vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày16/01/2015 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ khoản dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 08/6/2018 bà Ngọc còn nợ Ngân hàng số tiền là 16.307.225 đồng, trong đó nợ gốc là 6.989.865 đồng, nợ quá hạn là 9.317.360 đồng. Ngân hàng yêu cầu bà N trả toàn bộ số nợ trên làm một lần ngay sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Yêu cầu bà N tiếp tục thanh toán khoản tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án niêm yết hợp lệ các văn bản và giấy triệu tập của Tòa án cho bị đơn là Bà Lê Thị Mỹ N tại địa chỉ số Số B, đường N, Phường H, quận G, TP.Hồ Chí Minh, nhưng bị đơn không đến Tòa trong các buổi mời làm việc và vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên Tòa án không lấy được lời khai của bị đơn cũng như Tòa án không nhận được các tài liệu chứng cứ do bị đơn cung cấp. Tòa án vẫn tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vào các ngày 02/4/2018 và 24/4/2018 và gửi cho bị đơn thông báo kết quả các phiên họp (Đính kèm theo thông báo là các tài liệu, chứng cứ được công bố tại phiên họp, trừ hồ sơ pháp lý liên quanđến hoạt động của Ngân hàng). Do bị đơn vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa:

Đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bị đơn thanh toán toàn bộ khoản nợ tạm tính đến ngày 08/6/2018 là 16.307.225 đồng, trong đó, nợgốc là 6.989.865 đồng, nợ quá hạn là 9.317.360 đồng theo Hợp đồng tín dụng ký ngày06/3/2009, số thẻ tín dụng số 4720 7400 0085 9100 và bảo lưu các ý kiến đã trình bàytrong quá trình làm việc tại Tòa án.

Bị đơn Bà Lê Thị Mỹ N đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng

1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư kýphiên tòa.

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 trong quá trình giải quyết vụ án về thẩm quyền giải quyết vụ án; xác định tư cách người tham gia tố tụng; xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ cũng như trình tự thụ lý, việc giao nhận thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát và cho đương sự, tuân thủ thời hạn giải quyết vụ án.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định về nội quy phiên tòa sơ thẩm.

2. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án: Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70 và 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70 và 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Giấy đề nghị vay vốn kiêm Hợp đồng tín dụng ngày 06/3/2009 thể hiện Ngân hàng đã cấp thẻ tín dụng và phê duyệt hạn mức tín dụng cho Bà Lê Thị Mỹ N 15.000.000 đồng. Lãi suất trong hạn do Ngân hàng quy định đối với thẻ tín dụng từ ngày 06/7/2011 là 2.15%/tháng. Sau khi cấp thẻ tín dụng, bà N đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 422.342.580 đồng. Bà N đã thanh toán tổng số tiền là430.688.749 đồng. Còn lại 6.989.865 đồng nợ gốc, kể từ ngày 15/01/2015 bà Ngọc không thanh toán thêm cho Ngân hàng bất kể khoản nào nữa mặc dù đã được Ngân hàng nhắc nợ nhiều lần. Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà N thanh toán số tiền6.989.865 đồng và lãi suất phát sinh là có cơ sở chấp nhận. Đối với mức lãi suất quá hạn 3.225%/tháng phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

Căn cứ Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010; căn cứ Khoản 3 Điều 26; Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhậnyêu cầu của nguyên đơn buộc Bà Lê Thị Mỹ N phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền6.989.865 đồng và lãi suất phát sinh cho đến khi trả dứt nợ vay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng thương mại cổ phần S có đơn khởi kiện yêu cầu Bà Lê Thị Mỹ N trả toàn bộ khoản nợ là 16.307.225 đồng bao gồm cả nợ gốc và lãi của hợp đồng tín dụng ký ngày 06/3/2009. Đây là tranh chấp hợp đồng tín dụng, nên căn cứ Khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Căn cứ kết quả xác minh của Công an Phường B, quận G, TP. Hồ Chí Minh thể hiện Bà Lê Thị Mỹ N có hộ khẩu thường trú tại địa chỉ số Số B, đường N, Phường H, quận G, TP.Hồ Chí Minh, thực tế bà N đã bán nhà đi khỏi địa phương từ năm 2016 và không rõ ở đâu. Như vậy, bà N thay đổi nơi cư trú không báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định luật cư trú đã thể hiện nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện. Ngân hàng đã ghi đúng địa chỉ của bà Ngọc trong đơn khởi kiện theo địa chỉ tại Hợp đồng tín dụng, việc bà N thay đổi nơi cư trú mà không báo cho Ngân hàng biết địa chỉ nơi cư trú mới, cũng được coi là cố tình giấu địa chỉ theo hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở xác định địa chỉ của bị đơn tại quận G, TP. Hồ Chí Minh. Căn cứ theo quy định tại Điểm a khoản 1Điều 35, Điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận G, TP. Hồ Chí Minh.

Nguyên đơn xác định tranh chấp khoản nợ vay là giao dịch giữa Ngân hàng với bà Ngọc. Do đó Ngân hàng chỉ yêu cầu bà N trả nợ mà không yêu cầu cá nhân nào khác cùng có trách nhiệm trả nợ với bà Ngọc là phù hợp với nội dung thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng và phù hợp với quy định của Pháp luật về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự được quy định tại Khoản 1 Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [2] Bà Lê Thị Mỹ N là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại Điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt Bà Lê Thị Mỹ N.

 [3] Về nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn thanh toán đối với khoản nợ vay và tiền lãi của Hợp đồng tín dụng ký ngày 06/3/2009, theo số thẻ tín dụng 4720 7400 0085 9100 tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 08/6/2018) là16.307.225 đồng đồng. Trong đó nợ gốc là 6.989.865 đồng và nợ lãi quá hạn là9.317.360 đồng. Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ kiện do nguyên đơn cung cấp gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng do bà N ký ngày 23/02/2009 và được Ngân hàng ký kết Hợp đồng vào ngày 06/3/2009; bản điều khoảnvà điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng có hiệu lực ngày25/8/2008 và bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngânhàng có hiệu lực ngày 15/8/2014; bảng lãi suất Ngân hàng quy định theo từng thời kỳ; biểu phí; bản sao kê chứng minh khoản tiền giao dịch và thanh toán nợ cũng như đối chiếu các văn bản, tài liệu khác của Ngân hàng đủ cơ sở xác định giữa Ngân hàng với Bà Lê Thị Mỹ N có ký kết với nhau Hợp đồng tín dụng ngày 06/3/2009 và bà N được cấp thẻ tín dụng số 4720 7400 0085 9100. Quá trình thực hiện Hợp đồng bà N đã thực hiện các giao dịch và được Ngân hàng chấp nhận với tổng số tiền là 422.342.580 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân, Lãi suất do Ngân hàng quy định theo từng thời kỳ, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất được công bố được áp dụng tại thời điểm hiện tại, căn cứ bảng lãi suất của Ngân hàng quy định theo từng thời kỳ thể hiện mức lãi suất do Ngân hàng quy định đối với thẻ tín dụng từ ngày 06/7/2011 là 2.15%/tháng. Các khoản nợ thanh toán được thể hiện trên thông báo giao dịch . Xét nội dung thoả thuận của các bên tại Hợp đồng tín dụng nêu trên về khoản nợ vay, lãi suất và trách nhiệm trả nợ phù hợp với quy định tại Điều 471, Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2005 và thỏa thuận lãi suất phù hợp với quy định tại Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động Ngân hàng của các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật” nên đã làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.Theo chứng cứ nguyên đơn cung cấp, tại bảnsao kê tài khoản chứng minh giao dịch và thanh toán của khách hàng nợ theo hợp đồng tín dụng ký ngày 06/3/2009, thể hiện sau khi được cấp thẻ tín dụng số tiền bà N thực hiện các giao dịch và được Ngân hàng chấp nhận với tổng số tiền là 422.342.580 đồng và bà N đã thanh toán cho Ngân hàng với tổng số tiền 430.688.749 đồng, trong đó trả nợ gốc là 415.352.715 đồng; tiền phí và lãi là 15.336.034 đồng. Kể từ ngày 15/01/2015 bà N không thanh toán nợ cho Ngân hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng nên đến ngày 16/01/2015 Ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn toàn bộ khoản nợ gốc và yêu cầu bà N thực hiện việc nghĩa vụ trả nợ là phù hợp với thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng. Bà N không đến Tòa, không có lời khai, không cung cấp chứng cứ để xác nhận hoặc phản bác yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, bà N đã từ bỏ các quyền được pháp luật quy định. Theo Khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”. Hội đồng xét xử căn cứ hợp đồng tín dụng ký ngày 06/3/2009 và các chứng cứ trong hồ sơ vụ kiện do nguyên đơn cung cấp để xác định bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, do đó yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Buộc bị đơn phải có trách nhiệm trả cho nguyên đơn toàn bộ khoản nợ gốc là 6.989.865 đồng và nợ lãi quá hạn trên số nợ gốc chưa thanh toán tính đến ngày 08/6/2018 là 9.317.360 đồng, tổng cộng là 16.307.225 đồng, theo Hợp đồng tín dụng ký ngày 06/3/2009, số thẻ tín dụng 4720 7400 0085 9100. Trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Kể từ ngày 09/6/2018 bà N phải tiếp tục trả khoản tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng ngày 06/3/2009 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.

 [4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán khoản nợ16.307.225 đồng, được Tòa án chấp nhận toàn bộ, nên theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự với mức thu là (5% của giá trị tranh chấp) 815.361 đồng.

Ngân hàng thương mại cổ phần S không phải chịu án phí, được nhận lại số tiềntạm ứng án phí đã nộp là 368.232 đồng theo biên lai thu số AA/2017/0028301 ngày02/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 5, Khoản 3 Điều 26, Điểm a khoản 1 điều 35, Điểm akhoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 91, Điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Khoản 1Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;

- Căn cứ Điều 471, Điều 474 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

- Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015;

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

1. Buộc Bà Lê Thị Mỹ N có trách nhiệm trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S toàn bộ khoản nợ gốc là 6.989.865 đồng và nợ lãi quá hạn tính đến ngày 08/6/2018 là 9.317.360 đồng, tổng cộng là 16.307.225 (Mười sáu triệu ba trăm lẻ bảy nghìn hai trăm hai mươi lăm) đồng, theo Hợp đồng tín dụng (Gồm: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng do bà N ký ngày 23/02/2009 và được Ngân hàng ký kết Hợp đồng vào ngày 06/3/2009; bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng có hiệu lực ngày 25/8/2008 và bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng có hiệu lực ngày 15/8/2014), số thẻ tín dụng 4720 7400 0085 9100. Trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày 09/6/2018 Bà Lê Thị Mỹ N phải tiếp tục trả khoản tiền lãi phát sinh trên số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Lê Thị Mỹ N phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 815.361 đồng (Tám trăm mười lăm nghìn ba trăm sáu mươi mốt) đồng.

- Ngân hàng thương mại cổ phần S được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 368.232 (Ba trăm sáu mươi tám nghìn hai trăm ba mươi hai) đồng theo biên lai thu số AA/2017/0028301 ngày 02/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền được thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 233/2018/DS-ST ngày 08/06/2018 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:233/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 08/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về