Bản án 232/2018/HS-ST ngày 06/07/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 232/2018/HS-ST NGÀY 06/07/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 7 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 208/2018/HSST ngày 05 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2686/2018/ QĐXXST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Thị Thu H; sinh ngày: 17/02/1986 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 189D đường HHT, Phường S, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông TVH và bà LTH; hoàn cảnh gia đình: chưa có chồng con; tiền án: Ngày 29/7/2011 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù, ngày 29/8/2014 chấp hành xong hình phạt, tiền sự: không có; bị bắt, tạm giam từ ngày 11/10/2017 (có mặt).

Những người tham gia tố tụng:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông TVH, sinh năm: 1959

Thường trú: 189D đường HHT, phường S, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Người bào chữa:

Ông Nguyễn Đình Phương – Luật sư Văn phòng luật sư Vũ Thanh Hà thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa chỉ định cho bị cáo Trần Thị Thu H (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 11/10/2017, tại trước nhà số 147 TKX, Phường B, quận P, công an bắt quả tang Trần Thị Thu H có hành vi cất giữ 03 gói nylon chứa ma túy ở thể rắn, khối lượng 385,97 gram loại Methamphetamine trong cốp xe gắn máy biển số 59S2-726.43 do H điều khiển để bán cho đối tượng tên T. Khám xét nơi ở của H tại nhà số 469/32/6 DQH, Phường S, quận GV không thu giữ được vật chứng có liên quan.

Quá trình điều tra, H khai đã thực hiện 02 lần mua bán, cụ thể:

Lần 1 vào ngày 08/10/2017, H đặt mua 01 lạng ma túy đá giá 42.000.000 đồng của D (không rõ lai lịch) sau đó bán lại cho M (không rõ lai lịch) với giá 43.000.000 đồng.

Lần 2 vào ngày 10/10/2017, T (không rõ lai lịch) điện thoại cho H đặt mua 04 lạng ma túy đá với giá 44.000.000 đồng/lạng. H liên hệ với A (không rõ lai lịch) đặt mua 04 lạng ma túy với giá 42.000.000 đồng/lạng. Sau khi nhận ma túy tại khu vực đường HG, Quận S, H để ma túy trong cốp xe di chuyển đến điểm giao ma túy cho T, khi tới trước nhà 147 TKX thì bị bắt quả tang cùng vậtchứng.

 Tại Bản cáo trạng số 116/CT-VKS-P1 ngày 26/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Thị Thu H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 4 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa nêu quan điểm luận tội:

- Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng như nội dung bản cáo trạng.

- Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị xử phạt bị cáo 20 năm tù.

Về vật chứng đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ, tịch thu sung quỹ nhà nước điện thoại di động thu giữ của bị cáo, trả lại ông Trần Văn H chiếc xe gắn máy biển số 59S2-726.43. 

Luật sư bào chữa cho bị cáo nêu ý kiến:

- Thống nhất về tội danh và điều khoản áp dụng truy tố đối với bị cáo.

- Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nguyên nhân, hoàn cảnh phạm tội của bị cáo, cụ thẻ: Bị cáo tuổi trẻ bồng bột, trình độ học vấn thấp, lạc hậu thiếu hiểu biết pháp luật vì chữ hiếu muốn lo cho cha mẹ tuổi già, bệnh tật nên nhất thời phạm tội. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã ăn năn hối cải, thừa nhận mọi hành vi phạm tội. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo mức án thấp hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, điều tra viên và kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có có ý kiến hoặc khiếu nại, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và vụ án còn được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ khác như vật chứng, bản kết luận giám định, biên bản ghi lời khai người làm chứng, biên bản xác minh và các biên bản hoạt động điều tra khác…có đủ cơ sở xác định khoảng 21 giờ 30 phút ngày 11/10/2017 Trần Thị Thu H có hành vi cất giấu trái phép 385,97 gram ma túy đá loại Methamphetamine để bán cho đối tượng tên T để hưởng tiền lời số tiền 8.000.000 đồng nhưng chưa kịp giao ma túy thì bị bắt quả tang.

Với các tình tiết đã được chứng minh tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận Trần Thị Thu H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 như Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo gây nguy hại cho xã hội, gieo rắc nọc độc, làm tăng tệ nạn nghiện ngập ma túy, tạo tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác, gây mất trị an. Bị cáo tham gia mua bán ma túy khi bị bắt quả tang thu giữ qua giám định là 385,97 gram ma túy đá loại Methamphetamine. Bị cáo đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm cùng loại tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó cần áp dụng điểm e khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc mới đủ tác dụng, cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử cân nhắc khi bị bắt giữ bị cáo H có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải nên xem xét giảm cho bị cáo một mức hình phạt.

Ngoài hình phạt chính, buộc bị cáo nộp phạt một khoản tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Ma túy không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Điện thoại di động là phương tiện bị cáo sử dụng liên lạc thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Xe gắn máy biển số 59S2-726.43 bị cáo sử dụng thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, qua xác minh do ông TVH (cha bị cáo) đứng tên sở hữu, ông TVH không biết việc làm của bị cáo do đó cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh tạm giao trả tài sản cho ông TVH là có căn cứ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Thị Thu H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm e khoản 4, khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Trần Thị Thu H 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/10/2017.

Buộc bị cáo nộp phạt số tiền 10.000.000 đồng để tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1639, có chữ ký niêm phong của giám định viên VAT và điều tra viên HVC, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia (không pin).

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 176/18 ngày 10/4/2018 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

+ Giao trả cho ông TVH 01 chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Piaggio biển số 59S2-726.43, số khung RP8M82510HV005708, số máy M82EM5020192 (chiếc xe trên ông TVH đang tạm thời quản lý).

Bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu bị cáo chưa thi hành khoản tiền phạt thì hằng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 232/2018/HS-ST ngày 06/07/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:232/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về