Bản án 23/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Vào ngày 05/2/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 188/2020/HSST ngày 27/11/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 218/2020/QĐXXST-HS ngày 30/12/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số : 04/2021/QĐST-HS ngày 13/01/2021 đối với bị cáo:

SaFi A; Tên gọi khác: Y Phương; Giới tính: Nam. Sinh năm 1997 tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: ấp 4, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 03/12;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân Tộc: Chăm; Tôn giáo: Hồi giáo.

Con ông Võ Văn H, sinh năm 1970 và bà Sa Ly H, sinh năm 1977 Vợ, con: Chưa.

Tiền án: Không Tiền sự: 01 tiền sự, cụ thể:

Ngày 04/5/2020, bị Công an xã Xuân Tâm xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản ngày 29/4/2020 tại quyết định số 65/QĐ- XPHC.

Bị tạm giam từ ngày 01/02/2021 cho đến nay ( Có mặt tại phiên tòa* Bị hại:

Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1980 ( vắng).

ĐKTT: ấp 2, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai * Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Võ Văn H, sinh năm 1970 ( vắng).

ĐKTT: ấp 3, xã X, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

2. Anh Nguyễn Hữu Ph, sinh năm 1980( vắng).

ĐKTT: ấp 1, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai

3. Bà Nguyễn Thị B1, sinh năm 1977( vắng).

ĐKTT: ấp 1, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ ngày 12/7/2020, SaFi A điều khiển xe mô tô biển số 72H2-8460 đến khu vực phía sau vườn nhà anh Nguyễn Văn B thuộc ấp 2, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai để trộm cắp tài sản. SaFi A quan sát không thấy có người trông coi, nên đã dựng xe mô tô phía ngoài hàng rào lưới thép B40 của nhà anh B rồi dùng kềm cộng lực (loại cầm tay) đã chuẩn bị sẵn mang theo cắt đứt một đoạn lưới thép B40 ra khỏi hệ thống hàng rào, cuộn lại thành hình trụ, bỏ lên yên xe mô tô biển số 72H2-8460 để tìm nơi tiêu thụ. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, SaFi A chở cuộn lưới thép B40 vừa trộm được lưu thông trên QL1A thì phát hiện Cơ sở kinh doanh phế liệu của chị Nguyễn Thị B1 thuộc ấp 1, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Nai nên đã chạy vào trong gặp anh Nguyễn Hữu Ph (chồng của chị B1) nên thỏa thuận và cân số lưới thép B40 trộm cắp được tổng trọng lượng 44kg và được anh Phước mua với số tiền là 260.000 đồng. Do việc trộm cắp tài sản và tiêu thụ dể dàng nên vào khoảng 16 giờ cùng ngày, SaFi A tiếp tục điều khiển xe mô tô biển số 72H2- 8460 đến khu vực đã trộm cắp tài sản của anh Nguyễn Văn B, quan sát không thấy có người trông coi, SaFi A dùng kềm cộng lực (loại cầm tay) cắt một đoạn lưới thép B40 ra khỏi hệ thống hàng rào, cuộn lại thành hình trụ, bỏ lên yên xe mô tô trên và điều khiển xe mô tô chở cuộn lưới B40 đến Cơ sở kinh doanh phế liệu của chị Nguyễn Thị B1, cân được 44kg và được chị B1 mua số tiền 260.000 đồng, tất cả số tiền bán trên, SaFi A tiêu xài cá nhân hết. Đến khoảng 24 giờ cùng ngày, SaFi A tiếp tục đến nhà anh Nguyễn Văn B để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì bị người dân phát hiện và trình báo Công an xã H lập hồ sơ ban đầu và bàn giao Công an huyện Xuân Lộc xử lý.

* Tại Bản kết luận định giá tài sản số 66/KL-HĐĐG, ngày 28/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Xuân Lộc kết luận: Giá trị của 02 cuộn lưới thép B40, tổng trọng lượng 86.6kg đã qua sử dụng có giá trị là 606.200 đồng.

* Vật chứng vụ án:

- 02 cuộn lưới thép B40, tổng trọng lượng 86,6Kg.

- Xe mô tô nhãn hiệu Team, biển số 72H2-8460, màu sơn nâu, số khung DTF100-0700186, số máy DTE100- 0700186.

- 01 cái kềm làm bằng kim loại, hình dạng tròn và nhọn, cán làm bằng kim loại được bọc bởi lớp nhựa màu đen

* Trách nhiệm dân sự:

- Anh Nguyễn Văn B đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm về dân sự, cam kết không khiếu kiện hoặc khiếu nại về sau.

- Anh Nguyễn Hữu Ph và chị Nguyễn Thị B1 không yêu cầu bồi thường về dân sự .

Tại bản cáo trạng số: 199/CT-VKSXL ngày 23/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc truy tố bị cáo SAFI A về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo bản cáo trạng và đề nghị xử phạt bị cáo SAFI A từ 06 tháng đến 08 tháng tù. Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Tại phiên tòa bị cáo SAFI A khai nhận: Vào ngày 12/7/2020, SAFI A đã có hành vi trộm cắp 02 cuộn lưới thép đã qua sử dụng, có trọng lượng 86,6kg, trị giá 606. 200 đồng (Sáu trăm lẻ sáu ngàn hai trăm đồng) của nhà anh Nguyễn Văn B, thuộc ấp 2, xã H, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo SAFI A phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] nh tiết tăng nặng: Không.

[4] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại, bị cáo là người dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, i, h khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhận thấy: Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ khả năng nhận thức về hành vi của mình, nhưng do lười lao động mà bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản để kiếm tiền tiêu xài. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Do đó, cần phải áp dụng một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Vật chứng vụ án:

+ Đối với 01 cái kềm làm bằng kim loại, hình dạng tròn và nhọn, cán làm bằng kim loại được bọc bởi lớp nhựa màu đen, là công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 xe mô tô biển số 72H2-8460, số khung DTF100-0700186, số máy DTE100-0700186 thuộc sở hữu của bị cáo SaFi A, là phương tiện bị cáo sử dụng phạm tội nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

+ Đi với 02 cuộn lưới thép B40, tổng trọng lượng 86,6kg thuộc sỡ hữu của anh Nguyễn Văn B. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc trả cho anh B là phù hợp nên không xem xét.

[7] Trách nhiệm dân sự:

- Anh Nguyễn Văn B đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm về dân sự nên không giải quyết.

- Anh Nguyễn Hữu Ph và chị Nguyễn Thị B1 không yêu cầu bồi thường về dân sự nên không xem xét giải quyết.

[8] Đối với anh Nguyễn Hữu Ph và chị Nguyễn Thị B1 khi mua tài sản của SaFi A, anh Phước và chị B1 không biết tài sản trên do SAFI A phạm tội mà có. Cơ quan CSĐT Công an huyện Xuân Lộc không đưa ra hình thức xử lý đối với anh Phước, chị B1 là phù hợp.

[9] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với một phần nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận phần phù hợp.

[10] Về án phí: Bị cáo SAFI A phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s, i, h khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo SAFI A phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: bị cáo SAFI A 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/2/2021.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 cái kềm làm bằng kim loại, hình dạng tròn và nhọn, cán làm bằng kim loại được bọc bởi lớp nhựa màu đen.

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô biển số 72H2-8460, số khung DTF100-0700186, số máy DTE100-0700186 là phương tiện SaFi A sử dụng hành vi trộm cắp.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về Án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo SAFI A phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 23/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:23/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về